Chiều Tàn

Chiều tàn

 

– Ruth, mai là buổi họp cuả Hội và sau đó dùng bửa trưa , tôi sẽ đến đón bà cùng đi

– Dolly, cảm ơn bà, nhưng Rosie đã hứa sẽ đến đón tôi , chúng ta gặp nhau đằng ấy vậy .

– Vâng, tôi sẽ đến đó lúc mười hai giờ kém mười lăm .

 

Mưa cuối thu nặng hạt, lạnh từ đầu tháng mười hai. Năm nầy thời tiết thật bất thường, những cơn bão lớn liên tục tàn phá vùng đầm lầy phía nam, mưa dầm phía tây bắc , tháng mười một, vùng Trung Tây ấm không ngờ. Cuối thu, những chiếc lá phong chưa kịp trở màu, đang đỏ thắm đột ngột biến thành nâu đen, cơn bão đổ gần nửa thước tuyết xuống, cả một vùng trắng mênh mông, nhiệt độ thấp giữ lại màn tuyết dầy , không gian buốt tận cùng những đốt ngón tay. Kéo lại mảnh khăn che mái tóc, những hạt mưa thấm qua sợi tơ mỏng bám trên đỉnh đầu, hạt li ti long lanh như vương miện .

Căn phòng nhỏ ấm cúng, ánh lửa trong lò sưởi bập bùng, cây thông trong góc giăng đầy đèn hoa lấp lánh, dưới gốc là những gói quà giấy màu xinh xắn, dây kim loại phản chiều theo ánh đèn .Rosie tươi cười đứng chào khách, đã có hơn chục người đang ngồi chuyện trò bên tách cà phê bốc khói.

– Ruth, bà khoẻ không ? Rât vui khi gặp bà , Ông Leon thế nào rồi ??

– Dolly , tôi khoẻ, thế bà chưa biết tin ? Leon ngã nặng, ông bị rạn xương chậu, hiện đang nằm trong bệnh viện.

– Oh ! Tôi không biết tin nầy , sảy ra từ bao giờ?

– Hơn tuần nay rồi.

– Thế bác sĩ bảo tình trạng Ông ra sao ?? Có nhiều triển vọng phục hồi ??

– Vâng, ông không còn nằm trong phòng cấp cứu, tuần sau có thể xuất viện, nhưng phải chuyển vào Nursing homes để tập luyện lại, thời gian bình phục sẽ rất chậm, vì ông cũng yếu rồi , cần có người theo dõi thường xuyên

– Tôi thật vô tâm, lâu nay không hỏi thăm tình trạng sức khoẻ cuả ông.

– Cho đến tuần trước thì Leon vẫn bình thường.

– Ông có còn nhận ra Bà và các con không ?

– Với chứng bệnh lãng trí cuả ông, thú thật tôi không biết ông nghĩ gì , có thể khi nhớ khi quên, đôi khi ông đứng bên trong cửa sổ, nhìn ra bên ngoài rất lâu, có lần mở cửa bước hẳn ra hiên, nhìn dòng xe cộ ngược xuôi qua lại, thơ thẩn tần ngần, mần mò vuốt mấy chiếc lá cây, nhưng ông không dám đi xa, chỉ quanh quẩn trong sân rồi trở vào. Tôi chờ bên trong len lén nhìn theo , sợ ông quên, cứ đi lang thang rồi không nhớ lối quay về , nhưng hình như trong tiềm thức ông cũng biết giới hạn cuả mình, ông chú mục vào thinh không, trong cái dáng im lặng nghĩ ngợi, rồi lặng lẽ vào nhà.

– Ông có còn nhớ các chuyện khác không ??

– Chuyện hiện tại, sinh hoạt hàng ngày thì không, tôi phải nhắc nhở ông, như giờ giấc thuốc men, ăn uống …Nhưng ông rất ngoan ngoản, khi nhắc thì làm ngay . Chỉ phiền là tôi không thể để ông ở nhà một mình được, do đó tôi không còn đến họp hàng tuần với quí bà. Ngoài giờ ngủ nghê, dọn dep nhà cửa, ban đêm tôi phải canh chừng ông. Khó nhất là ban đêm, vì ông biết cách mở chià khoá cửa lớn, căn bệnh nầy không tự chủ, không phân biệt thời gian và không gian, ngủ ngược lại giờ giấc, ban đêm thường khi mất ngủ, lúc thức giấc đi qua đi lại đếm bước chân, tựa như đang mộng du …Nấu nướng thì không nhớ tắt bếp, khi ra ngoài quên đường về…

– Khồ thật , tôi thường hỏi Rosie , xem bà có cần giúp đỡ không.

– Ngoài chuyện phải canh chừng Leon ra, tôi cũng không cần gì khác. Các con vẫn thường đến chăm sóc, nhưng chúng nó cũng có gia đình riêng, bận biụ với công việc làm ăn hàng ngày. May mắn là còn có Julie, và Rich ở gần đây , chúng thay phiên nhau sang đón , cho nên tôi đi Lễ nhà thờ vào Chuá Nhật theo chúng nó cho tiện việc, trong tuần chợ buá thì cũng không cần thiết lắm, ăn uống có là bao , sau giờ làm việc, Julie ghé ngang , khi thì bình sữa, lúc ổ bánh mì, hộp ngũ cốc .

– Ông vẫn còn đi Lễ chung với bà chứ ?

– Vâng, thiên linh ông không hoàn tòan mất hẳn, tôi nghĩ là ông không nhớ lời cầu kinh , nhưng hình như không khí trang nghiêm trong nhà thờ, muì nến hương, bài thánh ca và tiếng cầu kinh rì rào làm ông an tâm, hàng tuần, khi tôi nhắc ông thay quần áo để đi thì ông không hề phản đối .

– Tôi chỉ biết cầu Chuá ban phúc lành cho ông bà .

– Vâng , Cảm ơn Bà .

 

Tôi quen Ruth từ khi dời về thành phố nhỏ nhoi, bình an nầy. Ngày đi ghi danh học cho các con, gặp bỏ già đang quét dọn nhà thờ, nhìn tôi lạ mặt , nhưng ông vẫn ân cần chào, nồng nhiệt giới thiệu các sinh hoạt cuả họ Đạo, mời tôi tham gia, khi đến họp với các bà dưới tầng hầm cuả nhà thờ, đi một vòng báo danh, nhận mặt cùng nhau, tôi bắt đầu sinh hoạt với họ.

Ruth là người đầu tiên tôi hỏi tên, có phải vì khuôn mặt và nụ cười hiền hòa, dáng bà nhỏ nhắn mỏng manh, mái tóc trắng như bông, nhìn như tơ thật mịn màn, nói năng diụ dàng chận rãi. Quen nhau ít lâu, điều tôi ngạc nhiên nhất, sống trong xã hội cơ khí bộn bề, bà vẫn không hề học lái xe, vẫn đi bộ hàng ngày, từ nhà đến nhà thờ, đi siêu thị mua thực phẩm, ra bưu điện, ngân hàng … Hấu hết các sinh hoạt hàng ngày chunh quanh cái thành phố nhỏ phố xá chưa đếm đầy hai bàn tay. Bà sinh ra ở một góc làng, khi Dyer vẫn còn thưa thớt dân cư, tốt nghiệp trung học, ghi danh vào trường dạy nghề, học nghề thẩm mỹ, tốt nghiệp, lấy chứng chỉ hành nghề, xong lại kêt hôn rồi sinh và nuôi con. Ruth sống quanh quẩn với chồng con trong thành phố hiền hoà, mẫu người nội trợ thuần thục, căn nhà luôn gọn gàng tươm tất, mảnh vườn con con trồng đủ các thức hoa màu, một góc sân rộng đầy hoa, muà nào hoa nấy, bên cạnh chiếc bể chưá nước tắm, và chiếc lồng đựng thức ăn cho bầy chim viễn xứ, chúng ghé ngang từ đầu muà xuân sang cuối thu, tiệc tùng hân hoan, no nê cất tiếng hót rộn ràng. Suốt cuộc đời, từ lúc thanh niên, bà chưa hề mạo hiểm ra khỏi vùng an cư . Bà tâm sự “ Tôi chỉ có chuyến đi xa nhất trong đời là theo Cha Sở đi hành hương ở Toà Thánh La Mã. Ngoài ra thì tôi chỉ đi quanh quẩn trong tiểu bang, ngoài đời rộn rịp quá, tôi thấy mình lạc lõng, ngay cả Chicago, cách đây hơn một giờ xe, tôi vẫn chưa sang bên ấy gần mấy năm nay …”

Tôi nghe mà ngơ ngẩn, thật trái ngược với đôi chân luôn sẵn sàng ngao du cuả tôi, dòng máu phiêu lưu do Ba tôi luân lưu trong huyết quản, vợ chồng tôi, hàng năm dù có bận rộn thế nào, chúng tôi cũng dành thời gian, tha bầy con lang thang, muà hè đi cắm trại, thăm vùng hồ phía nam, sang bờ biển phía đông , vượt khu núi non cận đông, từ miền Trung tây sang Canada phía Bắc, Mexico phía nam, khắp các chốn, thành phố, tiểu bang, ghi từng dấu chân chim . Mỗi chuyến đi xa là học thêm kinh nghiệm, buổi tối trước giờ nghỉ ngơi , mở bản đồ, đếm thành phố đã đi qua , đo khoảng cách cho nơi sẽ đến, ước lượng thời gian, bao giờ sẽ nghỉ trưa, dừng lại khoảng đường nào, cuối hành trình, sau khi về lại tổ ấm, trước khi cất bản đồ lên kệ sách, câu hỏi cuối cùng vẫn là “ sang năm mình sẽ đi đâu ?” Luôn luôn các con biết và chờ đợi cho chuyến đi sẽ đến .

Mỗi muà tựu trường, khi cô giáo hỏi từng em học trò “… mùa hè có gì vui ?” . Các con luôn có những mẩu chuyện kể về chuyến đi xa, những trông thấy từ vùng đất lạ, chúng bạn bè ngạc nhiên :

– Bố mầy làm gì mà tuị bây năm nào cũng đi chơi xa hết vậy?”

– Bố Mẹ tao thích đưa con caí đi chơi, Bố tao bảo có đi như vậy chúng tao mới mở tầm mắt, học hỏi nhiều nơi, thấy nhiều phong cảnh.

– Vậy tuị mầy đi được bao nhiêu chổ rồi ?

– Bờ biển bên đông, đi từ New Hamshire xuống Key West . Phía Tây, hồi tao còn bé tí, Bố tao đã chở đi California bằng đường xe, và cả máy bay nữa. Phía Nam tụi tao đã đi thăm New Orlean , Galveston…

 

Trong hội , các bà là cư dân kỳ cựu cuả vùng nầy, tôi là cánh chim thiên di , chạy thoát làn sóng đỏ, dìu dắt nhau về vùng hồ, cóp nhóp thu nhặt, tha bầy con nhỏ về xây tổ cành nam. Nghe các bà kể lại chuyện ngày xưa, khi Dyer chỉ có một con phố chính, dăm ba cửa hàng, không quán rượu, nhà thờ chính toà xây đã hơn trăm năm, bên cạnh ngôi trường trung học duy nhât trong quận lỵ, các lớp tốt nghiệp chưa đầy trăm học sinh. Không bù lại năm chín mươi sáu, trường trung học của quận lỵ phải xây hẳn một nhánh mới, dành riêng cho học sinh lớp chín, năm đầu tiên vào bậc trung học cuả trường.

Nhân dịp Lễ Giáng sinh, họ Đạo tổ chức ngày bán thức ăn, bánh trái và hàng thủ công để gây quỹ cho nhà thờ . Suốt năm, Các bà họp nhau vào ngày thứ ba trong tuần, sau khóa lễ hàng ngày, trong tầng hầm cuả nhà thờ, họ cắt từng manh nhựa mỏng, luồn từng sợi len, biến các vật dụng dư thừa nằm lây lất chunh quanh, thành những con búp bê hình thiên thần, những ngọn đèn hoa làm từ những thứ bỏ quên hay vất đi trong nhà, qua bàn tay khéo léo và hướng dẫn cuả Ruth và Liliam, biến thành những sản phẩm chưng bày thật mỹ thuật. Từng manh vải nhỏ cắt ra , khâu lại, thành chiếc mền xinh xinh cho trẻ em, hay trang trí cho phòng ngủ, thành khăn đắp cho cụ già ngồi trên xe lăn, hay choàng qua vai để giữ lại chút hơi ấm …Ruth trầm lặng, đôi bàn tay khéo léo cần cù, có rất nhiều sáng kiến, bà lặng lẽ làm việc. Mary, người tuổi cao nhất trong các bà, vẫn đầy năng lực, ngày tôi đến tham gia, bà còn nhẹ nhàng khoe

– Năm nầy tôi có thêm hai đứa chắt nữa, vị chi là hai mươi đứa đó.

– Thật quí hoá .Chúc mừng Bà, theo như phong tục chúng tôi thì bà có nhiều phúc đức lắm đấy.

– Vâng,Tôi biết, mỗi đứa cháu sinh ra, tôi đều kết tặng cho chúng một cái mền.{ baby quilt }

Mary quilt rất đẹp, đường chỉ thật khít khao, bà và Helen giống như hai quyển tự điển sống, Helen rất vui tính, bà kể chuyện rất lôi cuốn, hấp dẫn, tôi lắng nghe hai người ngồi ôn lại mọi chuyện thường ngày, từ những ngày Dyer chỉ có một con đường tráng nhựa, hai bên là thảo nguyên bát ngát, những mái nhà lưa thưa, phương tiện di chuyển vẫn còn dùng ngựa kéo, chưa kể những năm khủng hoảng kinh tế 1930, khi thực phẩm khan hiếm ở thành phố , vải vóc hàng hoá không đủ chi dùng, tất cả các thức đếu dùng tem phiếu phân chia. Bà nhắc chuyện thiếu thốn nhu yếu phẩm, gợi lại trong ký ức đau buốt, đoạn đời tôi không còn muốn nhớ lại.

Muà đông Bắc Mỹ lạnh lê thê, củi đốt phải dè sẻn. Helen vui miệng nhắc lại những chiếc vớ màu sắc như cầu vồng, vì không tìm được chỉ len cùng màu, mẹ bà dùng bất cứ màu nào có được để đan vớ cho các con, những chiếc vớ không lớn kịp cùng bầy trẻ con ăn chưa no lo chưa tới, thủng gót, thò ngón, Mẹ dùng màu khác mạng lại, hình dạng chúng thay đổi, nhưng niềm vui tuổi thơ không vì đó mà băn khoăn vương vất. Mấy mươi năm sau, mỗi lần mua vớ, từng nửa chục cho các con , bà lại nhớ, những chiếc vớ đủ màu là dấu hiệu cũng như kỷ niệm tuổi thơ , theo bà cho đến bây giờ .

Helen vẽ lại cho tôi hình dung bức tranh sống động, bà là con người lạc quan, dù là kể những chuyện khó khăn thời kinh tế khủng hoảng trước Đệ nhị Thế chiến, Helen không dùng đó làm điều thất vọng, chán nản, bà cho rằng sau cơn mưa trời sẽ sáng, chuyện khó khăn sảy ra thời bấy giờ, lúc tuổi bà hãy còn thơ, chunh quanh mọi người đều đấp đổi, không khác gì nhau, nên không ai bận tâm so sánh điều bất hạnh với người khác, chỉ biết cố gắng, cần cù làm việc, trao đổi giúp đỡ nhau . Nghe bà kể chuyện, trong lòng tôi nảy sinh sự liên tưởng và so sánh, hai vùng đất tôi sinh ra và khôn lớn, hai xả hội cách nhau một đại dương ngút ngàn, hai dòng tư tưởng đông tây. Những sáng kiến cuả người nội trợ, chăm lo con cái , dù trong bất cứ hoàn cảnh nào , quốc gia nào, đông hay tây, thiên chức mẹ cuả người phụ nữ vẫn không thay đổi. Hình ảnh chiếc áo vá quàng cuả người đàn bà Việt nam tần tảo, tiết kiệm, chiếc áo may từ thuờ thanh xuân, cho đến lúc theo chồng về gánh giang sơn nhà chồng, tất tả bờ ao, sớm hôm sương gió, lo lắng trong ngoài, vì chồng, nuôi con …

 

Những năm sau nầy, trong một buổi họp hàng tuần, bà nhẹ nhàng báo tin

– Tôi mới biết kết quả thử nghiệm, đúng là bệnh ung thư rôì, bác sĩ bảo tôi nên chuẩn bị tinh thần, trước hết là chửa bằng hoá chất [ chemotherapy ], có thể phải đốt bằng tia phóng xạ [ radiation] .

– Có cần thiết phải dùng cả hai cách chửa trị không ?

– Vâng, không có gì chắc chắn cả, nhưng phải thử mọi cách thôi.

– Tôi cầu nguyện cho Bà

– Cảm ơn bà

Điều trị bằng hoá chất, như dùng gươm hai lưỡi, chất độc chống ung thư cùng lúc ăn mòn sức khoẻ, khi chửa bằng tia phóng xạ, sức nóng như thiêu đốt cháy thanh quản, ăn uống rất khó khăn, cộng với nhau, có những ngày uống nước vào cũng nôn mữa thì nói gì đến chuyện ăn. Mặc dù không còn hơi sức để kể chuyện được như trước đây, Helen vẫn luôn lạc quan. Ngày nào gắng gượng được, bà lại xuống phòng họp, không may vá nổi thì ngồi chuyện trò đôi chút. Mái tóc óng ánh cuả bà biến mất dần, màu da hồng hào trước đây cũng ngã sang xanh xám. Bà bình thản kể chuyện chuẩn bị về với Chúa trên Thiên Đàng. Sút cân vì không còn ăn uống bình thường, chiếc áo thêu hoa dành cho ngày tang ma, bà nhờ tôi sửa lại cho nhỏ hơn , tóc không còn, bà dùng khăn voan che đầu , dặn chúng tôi có đến dự đám tang thì không nên buồn, bà đã sống một cuộc đời trọn vẹn, giờ về với Chúa là điều tốt lành, mảnh đất chung thân, riêng nằm bên cạnh Giáo đường, bà đã chọn từ lâu, sẽ là nơi xác thân an nghỉ. Bà bình thản xếp đặt các chi tiết, ký giấy từ chối các phương tiện y khoa, máy móc trợ tim, hô hấp, nối vào cơ thể để kéo dài cuộc sống.

Sau khi tang ma , mỗi lần đến họp với nhau, tôi vẫn hình dung bà ngồi trên chiếc ghế quen thộc, giọng cười giòn giã, tiếng nói vang vang, thanh âm lôi cuốn. Sự bình thản đón chờ, chuẩn bị chuyến ra đi vĩnh viễn, tôi nghĩ đến những ngày thơ rong chơi tuổi nhỏ, trong căn nhà thờ tổ đường thâm u, nền đá ong rờn rợn, hàng cột gõ to hơn vòng tay ôm. Cút bắt nhau, dù có cố gắng làm gan, bầy trẻ nhỏ vẫn không dám léo hánh qua hành lang bên cánh phải, nơi chứa đôi song thọ sơn son thếp kim nhủ lóng lánh. Không biết từ bao giờ, từ lúc trí nhớ mù mờ, rong chơi, lạc sang nhà ngang, trong căn phòng tối om, chứa hai khối thù lù , khi tấm màn che nắng phơ phất theo gió đuà, màu son đỏ đập vào mắt, khiềp đảm, tôi chạy ù xuống nhà bếp, ôm lấy chân Ngoại, trái tim đập liên hồi trong lồng ngực, tưởng chừng như hai con quái vật đang chực chờ nuốt chửng trẻ con .

Lớn lên theo ngày tháng, nổi ám ảnh không tồn tại với thời gian. Khi hiểu thấu chuyện sinh tử cuả kiếp người, lang thang tìm cuộc sống mới, cách một đại dương xa thẳm, hai bờ đông tây, hai dòng tư tưởng, hình như có một nối kết vô hình nào, con đường tưởng chừng song song lại gặp nhau cuối chiều, khi những giọt nắng long lanh còn vương vấn, khi cuộc sống mong manh thoi thóp, đôi bàn tay không còn bấu viú vào, tâm bình an đón chờ .

 

– Dolly, Leon đi rồi ..

– Thật sao ? Bao giờ vậy ? Sao tôi lại nghe nói ông ấy đang phục hồi mà

– Vâng, nhưng bất ngờ trở bệnh, ông đi thật bình an, hôm cuối tuần, tôi nghĩ là sau lần ngã vừa qua, ông không ấy còn thiết sống nữa, ngày viếng là chiều thứ tư, đám tang ngày thứ năm, lễ lúc mười giờ sáng.

– Vâng cảm ơn bà báo tin , tôi sẽ đến dự .

 

Cú điện đàm ngắn ngủi, tôi nhìn bóng nắng lung linh trên mặt tuyết ngoài sân, hình ảnh nhỏ nhoi của Ruth hiện ra trong mắt, con người thầm lặng, sức chiụ đựng vô biên, chung cùng thì cái gánh nặng vẫn oằn trên đôi vai nhỏ. Gồng gánh bấy lâu, gánh cho đến ngày chung cuộc tử biệt, chu toàn cho đến phút cuối cùng . Leon đã vào cõi bình an, những ngày tháng hắt hiu còn lại, ai sẽ là người hôm sớm, căn nhà rộng thênh thang, chỉ còn lại chiếc bóng Ruth vào ra. Có phải Chuá là người thấu hiểu, không ai phải chiụ đựng quá sức mình, nhưng bao nhiêu là đủ, bấy nhiêu là cùng ??

 

Vũ Thị Thiên Thư

 

Chiếc Bóng Tơ Vương

Chiếc Bóng Tơ Vương

*

Màu nắng chiều nhạt nhòa in bóng xuống hàng dừa xanh mượt, con nước lớn, ngày mười ba, êm đềm lặng lẽ vổ nhẹ nhàng hai bên bờ sông. Ngôi chùa nhỏ nằm ở vàm sông, xây trong khuôn viên rộng rãi, cổng chùa đóng bằng cột gổ đơn sơ, sân trước trồng đầy hoa kiểng, được chăm sóc cẩn thận, mặt tiền hướng về phía con sông nhỏ, quen gọi rạch Bắc Vàng, bên góc vườn đầy hoa phía nam sân chùa, pho tượng Đức Quan Âm bồ tát khuôn mặt hiền từ mẫu ái, tay cầm nhành dương liễu hướng về vàm sông. Con sông Cái bé nước lớn từ nguồn cao đổ về hàng năm bên lỡ, bên bồi. Người dân quê mùa mộc mạc, tin tưởng vào Đức Bồ Tát vạn năng, người đến cầu cho mọi sự bình an, người đến cầu cho mùa màng suông sẽ, những người sống trong vùng đồng bằng dọc theo sông Hậu còn gọi là sông Cái Bé, để phân biệt với sông Tiền là sông Cái Lớn, người dân luôn chống chọi hàng năm từng cơn nước lũ. Sông Hậu mang phù sa về tưới cả vùng đồng bằng, con sông cái bình thường thật hiền hòa, êm ái, tháng lũ như điên cuồng, nước từ nguồn xa đổ về cuốn trôi đi bao nhiêu cây nhỏ mọc hai bên bờ sông. Nước đổ trong cơn giận dữ ào ạt như thác ngàn, bao nhiêu xuồng ghe, bao nhiêu tay chèo chống, mỗi lần qua sông khó khăn như vượt thác. Những hàng nọc cây đóng dọc theo bờ sông, những đám chà, những hàng đáy đóng bằng từng bó tre tàu rỗng ruột, trải dài dọc theo hai bên bờ sông, chìm sâu dưới làn nước lên cao, không còn không thấy đâu là cột tre đâu là ngọn, khi phải qua sông rất nguy hiểm vì không trông thấy các chướng ngại vật, đâm thủng ghe xuồng bị vướng vào.

 

Trụ trì ngôi chùa nhỏ là Sư Bà, tuổi quá ngũ tuần, người nhỏ nhắn, phong thái bao giờ cũng an nhiên điềm đạm, tiếng nói nhẹ nhàng, phụ giúp công việc chăm sóc còn có hai Sư cô, tuổi trẻ hơn, ngoài giờ công phu, các Sư cô thường làm lụng liên tục, trồng trọt rau quả, chăm sóc hoa lá trong khu vườn bao bọc quanh chùa. Khách thập phương đến thăm chùa và vào viếng Sư bà hàng ngày, nhất là những ngày Rằm, mùng một, khói hương nghi ngút.

 

Người đàn bà cột xuồng vào gốc cây dừa nằm cạnh bờ sông, vói tay lấy cái rổ tre đựng trái cây và bó nhang thơm, bà ta cẩn thận bước lên cây cầu dừa, bấm chặt mấy ngón chân, nước lên cao mấp mé, thân cây đóng đầy rong rêu trơn như thoa mỡ, sẫy một chân là rơi xuống nước ngay. Nhìn thấy cô gái mặc áo trắng đang dứng dựa gốc cây, bà gật đầu chào cô gái, cô ta im lặng nhìn ra xa, hình như cô đang đứng chờ ai bên cổng Chùa, bà ta vừa đi vừa nghĩ thầm.

 

Cô nầy thật lạ, viếng chùa sao không vào lại đứng dưới bến sông ? Người xanh xao như bóng ma, chẳng biết dân ở đâu mới tới sao mình chưa nghe nói vậy mà.

 

Bà ta đi mấy bước, nhìn lại, thấy cô gái đã quay lưng đang đi lần về phía pho tượng Quan Thế Âm, dáng nhẹ nhàng lướt đi như sương khói. Bà chép miệng, “cô nầy đi như bóng ma”. Bà cũng quay lại, đi về căn nhà khói, phía hậu liêu, vào trong chạn, chọn mấy cái dĩa lớn nhỏ, chưng bày, sắp xếp các thứ trái cây vào để lên chánh điện cúng Phật, thoáng thấy Sư cô vừa bước vào, với tay lấy cái khăn lau đôi bàn tay mới rữa còn ướt, Sư cô đang chuẩn bị thời cúng chiều, bà chấp tay.

 

– Thưa Sư Cô, mốt ngày rằm, con mang các thứ trái cây đến cúng Phật.

 

– Mô Phật, bà đã dọn lên bàn thờ chưa? Có cần Sư cô giúp không ?

 

– Dạ chỉ còn bên nhà vong nữa là xong rồi.

 

– Vậy bà cứ thong thả mang sang bên ấy, đã đến giờ cúng chiều, Sư cô vào mặc áo để lên Chánh Điện lễ đây.

 

Bà ta lui cui đặt các thứ trái cây, hoa quả lên bàn, bưng một dĩa trái cây vào nhà vong, nơi thờ phượng những người chết không ai hương khói, hay những người chết còn trẻ, thân nhân mang bài vị vào gởi trong chùa, tin tưởng rằng hồn ma có linh thiêng sẽ theo chuông mõ tu hành không lang thang dật dờ, vấn vương, quyến luyến về quấy phá gia đình. Trên bàn thờ lón đặt nhiều bài vị ghi rõ họ tên, ngày tháng sinh tử, và còn có cả hình ảnh của người chết. Bà đốt một nắm nhang, cắm vào lư hương, thoáng nhìn qua chợt đôi mắt như dán chặt vào tấm ảnh, đúng rồi, khuôn mặt nầy, ánh mắt nầy, cái áo lụa trắng và cả xâu chuổi đeo trên cổ, không thể nào, hay là người giống người, càng nhìn, bà càng quả quyết, cô gái dưới bến sông không khác tí nào với người trong ảnh nầy, hay là song sinh ? Bất chợt bà nhìn ra khu vườn, nơi pho tượng Đức Quan Thế Âm đứng nghiêm trang trong nắng chiều nhà nhạt, một cơn lạnh bất ngờ chạy dọc theo sống lưng, bà quay lưng đi như chạy về phía chánh điện. Trông thấy Sư cô trong chiếc áo choàng nâu vừa bước lên, bà vội vàng hỏi:

 

– Thưa Sư Cô, có thấy cô gái mặc áo trắng đến viếng chùa chiều nay không ?

 

– Không! Chiều nay chỉ có mình bà đến lễ chùa thôi.

 

– Sư cô thật không thấy ?

 

– Sao bà lại hỏi vậy? Sư cô không thấy ai cả, hay là khách nào đến viếng chùa mà lại không vào lễ Phật chăng ?

 

– Không lẽ, vì khi tôi vừa đến bến sông thì gặp một cô gái đang đứng như chờ ai, tôi chào thì cô không nói năng gì, chỉ đi vào Chùa, về hướng Quan Âm Các, tôi nhìn không thể lầm lẩn được, cô giống hệt như người trong tấm ảnh thờ dưới nhà vong.

 

– Mô Phật, Bà đã gặp cô Phi rồi đó, hữu duyên, thôi bà vào lễ Phật đi, chuyện dài lắm. Bà có rảnh rổi thì sau khi Sư Cô công phu xong sẽ kể chuyện lại cho nghe.

 **

– Nầy cho mụ hống hách nhé, từ nay cho bỏ tật hà hiếp người cô thế.

 

Cô hai Phi nắm lấy tóc người đàn bà xoắn vào tay, tay kia vã vào mặt, chị ta xoay người cố vùng vẫy nhưng tóc đã bị nắm chặt, càng vùng thì càng bị xiết chặt, đau thì ít nhưng xấu hổ thì nhiều hơn. Ai lại bị con nhải con làm nhục giữa chợ thế nầy. Mấy chị đàn bà cùng đi chung vội chạy lại định gỡ tay cô Phi ra, không ngờ cô tư Phiến thấy có người dám can thiệp, bèn nhảy vào vòng chiến, trên tay cầm cây dù cán cong ,cô máng cào cổ và lôi người đàn bà kia lại, thuận tay cô tặng cho hai tát nỗ đom đóm rồi mới buông chị ta ra.

 

– Khôn hồn thì chạy đi, đừng để bà nổi cơn cho thêm mấy cái cán dù nữa bây giờ.

 

Mấy người đàn bà bán hàng trên sạp dọc theo khu chợ cũng vây quanh lại.

 

– Cô Tư, đánh cho nó bỏ tật đi.

 

Quang gánh hổn độn, bạn hàng vốn đã không ưa mấy cái mặt thường ngày hống hách cuả bọn me Tây, được dịp cũng nhào vô ăn ké. Cô Tư Phiến như nử tướng ra quân đứng chống tay thị uy, mấy người đàn bà kia nhìn thấy tình huống, biết không thể nấn ná lại, sẽ bị ăn đòn hội chợ nên tiu nghĩu dắt nhau về khu gia binh của đồn lính nằm bên kia sông.Trước khi đi còn không quên buông lời hăm doạ.

 

– Tuị bây chỉ giỏi huà nhau, bà về gọi ông đội đến còng đầu cả lủ cho xem.

 

Cô hai Phi vuốt lại mái tóc, nhặt cái rỗ tre nằm bẹp dí bên lề đường đưa cho bà cụ rồi hỏi:

 

– Bác có đau không ? Thôi để tôi đưa bác về đằng Thầy Năm y tá khám bệnh nhá.

 

– Cảm ơn cô hai, Tui không sao, không có cô can thiệp chắc tôi bị nó đánh no đòn.

 

– Bọn nó chỉ biết hống hách bắt nạt người lớn tuổi thôi. Có giỏi sao không dám làm gì mấy người bạn hàng gà đằng kia, chọc vào chúng chưởi cho ôm đầu chạy không kịp.

 

– Tui đâu có gây hấn, chọc ghẹo gì chúng đâu, thằng Út câu được con cá lóc to, tui mang ra chợ bán tin chắc là sẽ có giá, nhưng bà ta trả rẽ quá, tôi năn nỉ xin thêm, bà không ưng nên tôi bán cho người khác, khi bà trở lại thì con cá nầy đã lở bán rồi, nhà người ta có giỗ, vậy mà bà ta nhất định chỉ muốn bắt lấy cho bằng được mới thôi.

 

– Tôi biết, bọn chúng nó từ lâu đỏng đảnh, ỷ lại vào thế lực bên đồn lính muốn làm gì thì làm, ngang ngược còn hơn là ăn cướp.Thôi bác đi chợ mua bán thì đi cho xong rồi về, cháu cũng về cửa hàng đây.

 

– Tôi thật là dội ơn cô Hai.

 

Anh Thương, đang đi lính bên đồn, và cũng là tá điền cũ của Ông Hương, từ bên trại lính tất tả về phố chợ, bước thẳng vào cửa hàng bán tơ lụa của bà Hương.

 

– Thím ơi! Khổ tới, hai cô đi đánh nhau với bọn vợ lính bên đồn, chúng nó lôi kéo nhau qua phục hận, còn xúi bà đội Tây nỉ non với chồng dẩn lính qua còng dầu hai cô mang đi đóng trăn nữa đó.

 

– Thật là, hai cái đứa con gái ngỗ nghịch, ông Hương lại vắng nhà mới khổ chứ. Hay là cháu vào lấy chiếc tam bản nhỏ bảo bạn chèo ngang sông cái, qua bên Cù lao đón anh Bá tụi nó về cho tôi, đi nhanh lên không thì khốn khổ với bọn chúng.

 

– Dạ, để cháu đi liền.

 

Bà Hương đóng hộp tiền, khóa lại, gọi cô Phương và cô con dâu trông coi cửa hàng rồi bước ra cửa. Xóm chợ thường ngày nhộn nhịp, bỗng dưng thưa thớt, mọi người lo gom góp vội vàng, mắt láo liên trông chừng, cả khu phố chợ lo dọn dẹp hàng hóa vào trong nhà vội vã.Vừa đến chợ, bà thấy anh đội lính Tây đang phùng mang trợn má, hai cô còn đang nhùn nhằn, họ cải nhau vừa tiếng Tây tiếng Ta, có mấy người đàn bà ăn mặc diêm dúa đang đứng chunh quanh chỉ chỏ.Bà nhỏ nhẹ nói với anh thông ngôn.

 

– Cháu nó nhỏ dại, nhờ ông bảo với ông đội để tôi mang cháu về dạy dỗ, ông nhà tôi đi vắng, mấy hôm nữa mới về, tôi sẽ trình với ông, còn thiệt hại thì tôi sẽ đền bù lại.

 

Mấy người vợ lính Tây thấy có người đến can thiệp, vội ngắt lời:

 

– Bà nín đi, hai con nhỏ đó tội đàng trời, để ông đội còng đầu giam cho bỏ thói, chọc vào chúng bà thì chúng bà cho biết tay.

 

Mấy bà quay lại líu lo, tiếng bồi nửa nạc nửa mỡ với ông đội Tây, bà Hương vẩn nhũn nhặn.

 

– Thôi cho tôi xin lỗi, con dại cái mang, tôi sẽ mang về dạy lại, các bà có cần tiền thuốc thang thì tôi xin trả, coi như là đền bù chút đỉnh vậy.

 

– Tôi đâu có cần cái thứ tiền bạc của bà, bảo chúng nó lạy tôi xin lỗi thì tôi tha.

 

Cô Tư Phiến nghe bọn đàn bà hổn hào với Mẹ thì nổi cơn xông tới.

 

– Má, đừng có nhiều lời với bọn nó, uổng nước miếng, để con vã cho nó rớt hai hàm răng, xưng vẫu mõm thì hết lộn xộn.

 

– Hai đứa bây về nhà chờ đó, Ba tụi bây về sẽ xử tội, con cái nhà ai lại đi đánh lộn ngoài đường. Đi ngay!

 

Hai cô nhìn nhau rồi lặng lẽ quay đi.Bà Hương lại cúi chào rồi định đi theo hai cô, ông đội đưa cây can ra cản lại rồi ra dấu cho bà đi theo, bà nhìn anh lính cùng đi với Ông hỏi lại:

 

– Ông ấy muốn gì ?

 

– Ông muốn bà theo về đồn nói chuyện.

 

– Cũng được.

 

Bà Hương kéo cái khăn the lên che mái tóc, giương cây dù đen lên để che nắng, thong thả đi theo sau ông đội về đồn lính bên kia sông.

 ***

Chợ Bằng tăng, nằm dọc theo con sông nhỏ, chảy vào sông Hậu giang. Trên bến sông, tiếng mái dầm khua nhau, tiếng mạn xuồng va chạm, thanh âm cuả buổi chợ sớm mai bắt đầu từ khi con nước lớn. Những chiếc xuồng cui, mũi nhỏ nhọn nằm khề khà bên cạnh chiếc xuồng lườn độc mộc kiêu sa. Bạn hàng cá tranh nhau mời chào, trả giá, kỳ kèo mua lại từ dân làng đi giăng câu, đặt lọp, bao nhiêu lồng tôm cá, những con cá lớn bé nằm dẫy dụa trong khoang chật hẹp cuả những chiếc xuồng bộng, xuồng ba lá, loại xuồng thông dụng, rất nhẹ nhàng, đóng bằng cây tạp, rẽ tiền và tiện dụng, trên mặt xuồng đóng sạp bằng nẹp tre, thân xuồng chia thành khoang, dục lỗ bên hông như mắc lưới để làm chổ giữ cá và thoát nước.

 

Trên con đường dẩn vào xóm chợ, bạn hàng gà níu kéo những người dân quê mang từng thúng gà con, từng lồng gà lớn ra chợ bán, kỳ kèo thêm bớt một hai. Khu chợ nhỏ nhóm theo chiều dài của hai dãy nhà đối mặt, chia thành từng khu riêng biệt, bày bán các mặt hàng khác nhau, như những thôn xóm nhỏ trong làng, nằm cận kề tiếp nối, mỗi xóm làm một nghề, xóm bánh tằm, xóm bún, xóm chằm lá” Khu bán cá, gần bên sông xếp một dọc hai hàng đối mặt nhau, những con cá lóc to vẫy đen bóng mượt, bơi lội vùng vẫy, lồng lộn, nước bắn tung toé trong các thùng nhôm , một nửa đậy lại bằng những chiếc sàng đan bằng tre thưa mắc, những chú lươn con xanh biếc không ngớt bò lắn quắn bên cạnh chú lươn vàng óng ánh nằm ngất ngưỡng kênh kiệu. Những thau nhôm nhỏ lớn đủ cở cuả người dân chứa đầy các thứ thuỷ sản, tôm cá, hầu hết bắt được từ trong đồng sâu, nào là cá giăng câu, cá mè nuôi trong vườn, cua đồng, ốc bưu, ốc đắng “Xóm gà cũng chẳng kém, bên cạnh anh gà trống ngóng cổ cất tiếng gáy hùng dũng, mấy chị gà mái oang oác cải nhau, bầy gà con ngơ ngác ríu rít nhìn quanh, như cái xóm nhà lá hổn độn”.

 

Bằng Tăng, chẳng biết tên gọi nầy có từ bao giờ, có lẻ do tiếng phiên âm từ vùng đấtThủy Chân Lạp xa xưa, cùng tên với con sông nhỏ mang nước từ sông cái, hay Hậu giang, một nhánh của Mekong, khi vào lảnh thổ Việt nam chia thành sông Tiền và sông Hậu, người dân quê đã quen dùng tên gọi nầy nên không thay đổi được, mặc dù đã bao nhiêu lần, tấm bảng treo trên công sở viết rõ ràng Xã Thới Long, đã được ông Hai Hoa mang xuống sơn phết kẻ bóng tô màu .Ông Hai ngoài công việc chính làm y tá còn có một cửa hàng bán sách vỡ bút mực phía đầu chợ. Nhìn ông, bao giờ cũng thấy quần áo lấm lem vết sơn chưa khô, đôi bàn tay vừa buông ống chích thì luôn luôn cầm lấy cây cọ, sơn màu bê bết trên khắp mặt mũi.Trong nhà ông treo đầy những bức hoạ truyền thần, ông vẽ theo trí nhớ, không thấy người ngồi mẫu, nhưng tất cả những tranh vẽ của ông chỉ có một khuôn mặt thôi, dù vẽ trong mỗi khung cảnh khác nhau, nét mặt biểu lộ tâm trạng vui buồn. Nghe nói thuở ông còn đi học ở Cần thơ, say mê một cô gái bên trường nử, dùng khuôn mặt người trong mộng làm mẫu, bạn bè thấy Ông có năng khiếu vẽ nên khuyên xin vào học trường Mỹ Thuật, ông cụ thân sinh lại không muốn cho con trở thành họa sĩ, chỉ muốn con làm thầy thuốc nên gởi ông vào bệnh viện học nghề y tá, học xong mang Ông về quê cưới vợ và chia cho gia tài để làm vốn kinh doanh, ông Hai thất tình cô bạn gái nên vẽ cô vào tranh treo dầy các vách. Cuối cùng, chỉ vì một cuộc thách đố giữa hai người bạn mà ông cầm cọ trở lại. Số là trong làng chỉ có ông Tám Thiên là người thợ vẽ, luôn bận rộn và hảnh diện với nghề nghiệp của mình ,vì không có mấy ai tay cầm cọ, làng cần gấp bảng tên ở trụ sở, bảo trong hai ngày phải xong, bạn bè khích tướng, ôngHai Hoa bấc đắc dĩ phải nhận vẽ bảng hiệu,và hoàn thành trước thời gian, mọi người thấy ông vẽ đẹp quá thi nhau đến nhờ, ông Hai cuối cùng cũng trở thành hoạ sĩ.

 

Khu phố chợ gồm hai dãy nhà song song, đối mặt nhau, một nửa quay lưng vào đồng ruộng, một nửa quay lại phía dưới sông, có căn xây hẳn thành hai tầng lầu ,có căn xây gác lửng. Từ liên tỉnh lộ số 9, nối liền hai tỉnh lỵ Cần Thơ và Long Xuyên vào đến chợ Bằng tăng chỉ hơn ba cây số, con đường nhỏ trải đá xanh, chăm sóc con đường nầy có một nhân viên duy nhất của ty Công chánh tỉnh lỵ, dân quen miệng gọi là ông Lục lộ, công việc hàng ngày của ông là đắp lại các khoảng đường bị mưa lún, nhặt các viên đá xanh, dẫy cỏ mọc hai bên. Con sông nhỏ chia đôi, bến đình và bến chợ, nối nhau bằng cây cầu ván rộng có thể qua được cả chiếc xe hơi lọai nhỏ. Phía bên kia sông là đồn lính Tây, chỉ một anh đội và vài anh lính tập , mấy chị vợ lính Tây sống riêng biệt trong một chùm nhà gỗ. Họ có những sinh hoạt cách biệt với dân làng vốn hiền hoà. Hàng ngày, cắp rổ đi chợ, họ di cùng nhóm với nhau, ăn mặc diêm dúa, bạn hàng lẫn người dân đều kiêng, nhẩn nhục trước sự hách dịch xáxh mé và hổn xược, họ ỷ lại dựa thế vào quyền hành cuả ông đội, mua bán thì trả rẽ món hàng, không mua được thì xúm nhau chuởi bới, đôi khi đánh đập cả người bán.

 

Tay cầm chiếc lượt sừng, nhẹ nhàng chải mái tóc dài quá lưng, đen mượt, bôi tí dầu dừa vào tay, đôi bàn tay quen thuộc, cử động khoan thai, Cô rẽ đường ngôi, chia tóc ra làm đôi, dánh lại thành sợi dây thừng, quấn vào sau ót, giắt lại chiếc lược đồi mồi, cô Phi rất nổi tiếng trong khu chợ, không vì cô là con gái đầu của ông Hương chủ, mà vì cô là người rất khéo tay, thông minh, vẹn toàn công dung ngôn hạnh, từ việc bánh trái trong nhà, lời ăn tiếng noí nhẹ nhàng, thêu thùa may vá, cho đến những kiểu tóc búi hàng ngày, kiểu giản dị thả mồng gà, kiểu cầu kỳ như đầu Lèo, múi bí cô đều học hỏi và thực hành cho đến lúc thành công. Ông Hương chủ, thân sinh cuả cô, dân trong làng không ai lạ gì tính tình thẳng thắng, cương trực và rất mực công bằng cuả ông, mồ côi cha, sớm mất anh, nhận chức Hương chủ khi hãy còn rất trẻ, lo lắng giúp đở mẹ nuôi nấng ,chăm sóc một bầy em, dựng vợ gã chồng, chia cơ nghiệp đất đai cho các em có căn bản để làm ăn, sau cùng, chính bản thân ông mới mang gia đình vợ con về xóm chợ, xây dựng cơ nghiệp cho riêng mình. Ông có tất cả bảy người con, bốn cô con gái, Cô Phi lớn nhất, cô thứ Phương và Phiến nối nhau, cả ba đang tuổi thanh niên, cô Phấn hãy còn thơ, ba cậu con trai, cậu Đức, cậu Phú và cậu út Minh. Bà Hương là người rất mực chân quê, đảm đang, nhân từ, bao dung. Những năm vải ta vải tám, thời chiến tranh với Nhật đảo chánh Pháp, hàng vải và các thứ sản phẩm cần dùng hàng ngày thật khan hiếm, người dân quê không còn quần áo lành lặn, có gia đình đã phải dùng cả bao bố tời để che thân, bà và ba cô con gái nuôi tằm, dệt vải, kỷ thuật thơ sơ, nhưng rất tiện dụng. Trong làng, những người nghèo khổ gặp khó khăn thường đến cầu cứu, khi thì chén gạo, khi thì manh aó bà luôn luôn giúp đở.

 

Vốn sinh trưởng trong một gia đình nông dân, đồng cảnh ngộ cha mất khi bà hãy còn thơ, Mẹ ở vậy nuôi con, chăm sóc ruộng nương, lớn lên, giúp đở Mẹ cáng đáng gia đình, cho đến lúc thành nhân theo chồng, lại gánh thêm giang san nhà chồng, đã quen cảnh Mẹ quá bụa, thêm đông anh chị em, là con gái lớn trong nhà, ruộng luá một tay bà trong ngoài cùng chồng chăm sóc. Nuôi dạy bầy em, long đong theo chồng, những năm tháng thăng trầm, gánh gồng cả bầy con xuống chiếc ghe lườn độc mộc, tản cư về Thốt Nốt, hay cắm sào trong vàm Cần Thơ Bé. Khi bồng chống bầy con dại , khi che giấu ông Hương trốn lánh những cuộc săn đuổi ráo riết. Cuối cùng hồi cư, dựng được căn nhà gỗ sơ sài, bà lại tập tành bán buôn gầy lại cơ nghiệp. Trong lúc ông Hương lo làm việc, tổ chức lại làng xóm, cơ cấu hành chánh, trường học, chợ búa, thì bà và ba cô con gái lo chăm sóc cửa hàng, thêu thùa may vá, nấu nướng làm bánh trái, nhận dạy học trò.

 

Trong làng chỉ có một ngôi trường duy nhất với ba phòng học, các cô đã thôi học từ khi phải tản cư, những ngày đậu ghe ở Thốt Nốt, bà cũng cố gắng cho các con tấp tểnh đến trường, sau khi thi đỗ Sơ học, sang Tiểu học, học đến ban Thành Chung, trở về làng thì trình độ của các cô đã vượt qua các lớp học, muốn tiếp tục thì phải về trường ở tỉnh lỵ, trong hoàn cảnh lúc bấy giờ đó là chuyện không thể thực hành. Bà Hương lại lo âu một vấn đề khác, các cô học hành đã cao hơn trai tráng trong làng, lại tiếp tục đi học giỏi hơn nữa thì như vậy biết tìm ai mà gá duyên kết nghĩa chồng con ? Nhưng không cho các con đi học thì Bà cũng thấy uổng cho cái trí tuệ trời ban, ngay chính bản thân bà, luôn hiếu học, khi các con cắp sách đến trường cũng là lúc bà bắt đầu học chử Quốc ngữ, toán pháp, từ toán cộng tính trừ, phép nhân chia, từ chử cái học sang đến nguyên âm, phụ âm, vần ngược vần xuôi, lần lần bà đọc được chuyện Nhị Thập Tứ Hiếu, Tấm Cám, Phạm Công Cúc Hoa, truyện Kiều thì bà đọc đến nằm lòng.

 

Ngày Đức Thầy khai sáng Phật Giáo Hoà Hảo, bà cặm cuội mua tập giấy học trò chép tay lại mấy quyển Sấm Giảng thi tập, Bửu sơn Kỳ hương, và thuộc lòng bao nhiều bài kệ kinh cuả Phật Giáo Hoà Hảo, lấy mười điều răn dạy cuả Đức Thầy làm mực thước ăn ở, cung cách đối xử với người ngoài cũng như dạy dỗ con cháu trong nhà.

 ****

– Anh Bá, chuyện lớn rồi, thím Hương bảo tôi đi đón anh về.

 

– Chuyện gì mà như lưả cháy mày vậy ?

 

– Đi nhanh lên cho kịp con nước, gấp lắm rồi, ghe còn chờ dưới bến, mình vừa đi vừa kể.

 

Bá chụp cái kết đội lên đầu, theo chân Thương xuống bến, chiếc ghe tam bản và hai người bạn chèo còn đang đợi. Bá bước xuống, ngồi vào giữa, Thương cầm cây dầm, tháo sơị xích bỏ vào khoang đầu, vừa ngồi xuống sạp, luôn miệng hối bạn chèo nhanh, xuồng vừa ra giữa dòng, anh tóm tắt câu chuyện, Bá ngồi nhấp nhổm, biết tính tình thẳng thắng của cô em, cộng với các ngón nghề gia truyền, trong tất cả các anh em họ, ngay cả Ba Vinh còn bị Phi đánh gẫy tay, thì cái bọn đàn bà tạp nhạp kia làm gì đụng tới chéo áo, chỉ ngại bọn đó lôi kéo đám lính vào, mảnh hổ nan địch quần hồ, có chuyện gì thì ăn nói làm sao ?

 

Bá hiểu hơn ai hết, tính tình Phi cứng rắn, hào hiệp, gặp chuyện bất bình thì sẽ không ngại gì mà không ra tay. Phi mỏng manh như tre, như trúc, mặt bao giờ cũng tươi vui. Nhìn vóc dáng mảnh mai đó, chớ dại mà trêu vào, đã không biết bao nhiêu lần đôi bàn tay quen thêu thùa may vá đó cầm roi rượt cướp, chỉ cần mấy đường quyền thôi cũng đủ bạt vía kinh hồn. Hậu duệ bà Kế Hiền, người phụ nử nổi tiếng trong vùng, từng tay không bắt trộm cướp với đầy đủ dao búa. Phi chẳng từng thách cả mấy ông anh họ có chạm được chéo áo thì cô thua một chầu, cho đến nay thì vẩn chưa có anh em nào làm được.

 

Phương hiền hòa nhất trong ba cô em, tính tình trầm lặng, ít nói, nhưng cũng khéo léo không thua gì Phi. Về nghề riêng thì cô chuyên về roi mềm, nhìn cây roi mỏng tanh như sợi dây thừng, nhưng khi lọt vào tay Phương thì như rồng rắn giởn mây. Đứng cách xa vẩn nghe tiếng xé gió đến rợn người. Tuy nhiên, khác hẳn tính nóng nảy của Phi, cô luôn dịu dàng, không bao giờ thách đố các anh em, luôn nhường nhịn, nhẩn nại, giúp đở mọi người, nhất là trong thân tộc, anh em bất cứ một ai khi gặp khó khăn, chỉ cần đến cầu cứu Phương là cô luôn tận sức giúp cho.

 

Phiến thì bồng bột và liếng thoắng, tính như con trai, cô là bài toán đố khó nhất cho Bà Hương, thuở nhỏ, cho Phiến vào trường của ông giáo Tất đi học vở lòng thì lén theo bầy trẻ trốn ra đồng bắt dế mọi, dế đá, chuồn chuồn, châu chấu, lớn tí thì chạy theo bọn mục đồng theo trâu, chăn bò, có lần Phiến cởi lưng con bò mộng chạy như ngựa tế trước bao nhiêu là đôi mắt sợ hãi của mọi người, mặc dù sau đó thì cô bị một trận quì hương tê cả hai đầu gối. Chuyện đi học như một cực hình cho cô thì nói gì đến chuyện nử công gia chánh. Cô chỉ thích quanh quẩn khi các chị làm bánh để được ăn vặt thôi. Tuy nhiên cô là người rất thẳng tánh, và cũng rộng rãi thương người như Mẹ, Phiến luôn bao che, giúp đở cho kẻ yếu đuối hơn mình.

 

Ba cô em gái tuổi cập kê, lẻ ra đã yên bề gia thất, khổ nổi thời buổi nầy, trai tráng trong làng lớp vào bộ đội Việt Minh, lớp theo đảng phái, còn lại nông dân chất phác. Phi và Phương thì đang học dang dở ban Thành Chung, trong làng không có bao nhiêu gia đình cho con gái đi học xa, hai cô trở về nhà chỉ quanh quẩn phụ giúp Mẹ trông giử cửa hàng buôn bán vải vóc tơ lụa, cùng các thứ bánh nướng, bánh tây, bánh ta” Ông Hương ngoài công việc làng xóm thì chăm lo vườn ruộng. Bà hương cũng muốn tìm nơi xứng đáng cho hai con yên bề chồng con, nhưng người trong làng quê mùa không dám đến hỏi, người ở tỉnh lỵ xa xôi không về tới. Phi và Phương hình như không mấy quan tâm, hai cô sống bình an với công việc hàng ngày. Chính bản thân Bá cũng nhiều lần mang bạn bè về giới thiệu, nhưng rồi đời quân đội nay dời mai ở, cuối cùng hai cô em vẩn chưa tìm được nơi nào thành thân chi mỹ.

 

Ghe vừa đến bến chợ, Bá nhảy phóc lên bờ, cẩn thận giấu cây súng lục vào người, anh đi một mạch về nhà. Ba Cô em đang ngồi chụm đầu trên ghế, vừa thấy Bá bước vào là đứng phắt dậy, cô Phiến láu táu:

 

– Anh về thật là kịp lúc, bọn chúng bắt Má em giải qua đồn rồi.

 

– Ai bắt ?

 

– Ông Đội Tây.

 

Cô chưa kịp dứt lời Bá đã ra khỏi cửa, anh bước như chạy. Con phố chợ hàng ngày đông đúc, bạn hàng tấp nập, chỉ thấy lác đác người bán mua vội vã. Anh tới trước hàng rào gai ngõ vào đồn, bảo anh lính gác:

 

– Vào báo với ông Đội có người đến thăm.

 

– Anh là ai ?

 

Anh lính còn chần chờ thì Bá vổ nhẹ vào báng súng rồi lập lại.

– Vào trình với ông Đội là có anh Bá đến thăm.

 

Trong lúc đó thì có anh lính già vừa bước ra, trông thấy Bá đứng trước cổng, anh ta vội vã chào:

 

– Anh Bá, gió nào đưa anh về đây vậy? Vào đây, vào đây, thật là quí hóa, anh có muốn làm ngay một ly cho ấm bụng không ?

 

– Chờ Tôi một chút, có tí chuyện phải giải quyết, nghe nói ông Đội đang làm việc ?

 

– À! Ông đang tiếp chuyện bà bạn hàng bên chợ, nghe nói mấy bà lôi thôi gì đó.

 

– Tôi vì chuyện lôi thôi đó mà phải về đây, dẩn tôi vào gặp ông ấy đi.

 

Bà Hương điềm nhiên ngồi trên ghế, đối diện là Ông đội, vừa thấy Bá bước vào ông đứng bật dậy mừng rỡ.

 

– Chào anh Bá, đến thăm tôi bất ngờ quá, mời ngồi, mời ngồi.

 

Bá chào ông rồi quay sang Bà Hương nói:

 

– Thưa Thím con mới về.

 

– Ồ! Bà đây là người nhà của anh ?

 

– Vâng! Để tôi giới thiệu đây là Thím của tôi, tôn kính cũng như Mẹ, từ khi ông bà thân sinh qua đời, Chú Thím thay thế cha mẹ nuôi dạy hai chị em chúng tôi, không có người chăm sóc tôi không có ngày nay.

 

Ông đội quay sang bà Hương:

 

– Thế thì phải xin lỗi, tôi không biết Bà là người nhà, thôi thì ta hãy giảng hòa vậy, hai bên bỏ qua mọi chuyện cho êm xuôi.

 

– Vâng! Bọn trẻ con nóng tính, con dại cái mang, tôi cũng xin ông bỏ qua cho, để tôi về sẽ lo răn dạy bầy trẻ trong nhà.

 

– Nếu anh giải quyết công việc như vậy thì xin cho tôi đưa Thím về xong sẽ trở lại hầu anh vài ly.

 

– Tốt, tôi chờ, anh đưa Thím về, để tôi gọi họ chuẩn vị dọn cho chúng ta một mâm rượu nhé.

 

Không ai hỏi cũng biết sau khi Bá đưa bà Hương về nhà thì sẻ có một màn giáo huấn với hai cô em. Dù biết mình không có lỗi, nhưng thương và nể anh, hai chị em Cô Phi và cô Phiến cũng ngồi im nghe Bá tụng cho một hồi kinh kệ đến lùng bùng đôi tai, trước khi Bá ngất ngưỡng trở qua cầu tối hôm đó, thân thể lắc lư, chân hưu chân nai, mặt đỏ như mặt trời. Hai cô em lại phải mang khăn lau mặt, giăng mùng cho ông anh nằm như khúc cũi, bà Hương vào ra lắc đầu. Sau trận đòn hội chợ, mấy người vợ lính Tây có đi chợ hàng ngày cũng e dè, không còn ngang ngược khinh dễ bạn hàng như trước. Khu chợ nhỏ trở lại cuộc sống êm ái hàng ngày, những biến chuyển quốc gia trọng đại cũng không làm người dân bận tâm hơn chuyện mưa nắng,chuyện công vụ mùa màng.

 

Giữa cuộc sống êm ái đó, tin báo Bá tử trận trong một cuộc chạm súng ở giáp nước, người bạn thân nhau lúc còn học chung khi xưa hộ tống thi hài anh về cho gia đình mai táng. Anh ta cũng mang theo vết thương chân còn đi khấp khểnh, vai băng bó sơ sài. Phi trở thành cô y tá bất đắc dĩ, lo chăm sóc hàng ngày, chuyện trò ban đầu còn bâng quơ e dè, dần dà trở thành tương đắc, khi Trung bình phục và không còn lý do gì để nấn ná, anh từ giã gia đình mang theo mảnh khăn thêu cùng lời hứa hẹn sẽ trở về.

 

Cuộc chiến thay đổi, Nhật vào Tây đi. Đồn lính Tây bỏ trống, đã không còn bóng dáng những người lính ra vào, hàng rào Cuộc chiến thay đổi, Nhật vào Tây đi. Đồn lính Tây bỏ trống, đã không còn bóng dáng những người lính ra vào, hàng rào kẻm gai xiêu dẹo, gạch đá chỏng chơ, lô cốt bụi bám nhện giăng.

 

Cô Phương đã theo chồng, đứa con gái đầu sinh ra nhỏ nhoi èo uột, năm sau lại sinh thêm đứa con trai, cô mang đứa con gái về gởi chị trông nom, hai vợ chồng dắt nhau ra chợ quận làm ăn. Phi tiếp tục công việc trông coi cửa hàng , Cô Phiến cũng đã có người đến hỏi, sẽ theo chồng nay mai.

 

Đứa con gái èo uột của cô Phương được bàn tay Phi săn sóc, chăm lo, lớn lên khỏe mạnh, dù vẩn bé như con búp bê. Cô dồn hết tình thương cũng như thời gian, suốt ngày, đan may bao nhiêu áo quần cho con bé. Nó chơi quanh quẩn trong cửa hàng, trong lúc Cô lo chuyện bán buôn, bạn hàng ở xa nghe con bé gọi cô Phi bằng Mẹ, tưởng là cô đã lập gia đình.Thật ra trong thâm tâm cô vẩn chờ đợi một ngày về. Đã mấy lần xuân, bà Hương vẩn nhắc… “con gái có một thời” chờ đến bao giờ, nhưng Phi vốn cứng rắn, cá tính đó ai còn lạ gì ? Bên trong cái vẽ dịu dàng đó, chứa một con người đầy tình cảm, đã thương yêu thì dù có phải chờ đợi bao lâu cũng cam tâm.

 

Giữa những xao động của chiến cuộc, hai năm tổng tuyển cử không thành, đệ nhất Cộng Hòa lúc ban sơ, cuộc sống dân quê trong làng quay theo sự thay đổi hàng ngày. Ban đạn diện xã ấp lần lượt thay thế cho bóng áo dài đen khăn xếp của các Hương chức hội tề, cùng lúc với những khó khăn thiếu thốn về tất cả mọi mặt, nhất là ngành y tế, thuốc men.

 

Bà Phó tất tả xỏ tay bào chiếc áo bà ba, hấp tấp quên cả đôi guốc mộc, đôi chân trần thoăn thoắt, chuyện lớn rồi, mấy hôm trước còn thấy Cô Phi xách giỏ đi chợ mà, sao lại đi nhanh như vậy ? Cửa hàng vải vắng ngắt, khung kính bôi vôi trắng báo hiệu nhà có tang chế, con bé ở đôi mắt đỏ oe, hé cánh cửa, chưa kịp thấy bà đã khóc òa lên. Trong nhà, trên bộ ván gõ, mấy người đàn bà đang ngồi cạnh đống quần áo, họ xổ ra những chiếc áo bà ba thêu, những chiếc áo dài lụa ngà, vừa cắt khuy áo, vừa chụm đầu thì thầm to nhỏ:

 

– Chừng nào thì mới khởi sự liệm cô Phi?

 

– Chỉ chờ cô Phương về tới, chắc khoảng quá ngọ thôi.

 

– Có ai lại đàng bà Chín lấy nồi đất chưa ?

 

– Để làm gì ? Nhà có thiếu gì nồi đồng, nấu bao nhiêu chẳng được.

 

– Không phải mua nồi nấu nướng, mua để úp mặt cô Phi trong hòm đó.

 

– Chi vậy ? Tại sao phải úp mặt làm gì ? Đã liệm bằng mấy chục xấp vải mùng rồi.

 

– Thì người ta vẩn thường làm vậy mà.

 

– Bà nói chuyện đùa, ông Hương là tín đồ Hòa Hảo thuần thành, dể gì ông làm mấy chuyện mê tín dị đoan đó.

 

– Nhưng cô Phi là gái cao số, chưa gã chồng, lại chết bất đắc kỳ tử, ông bà thường bảo con gái chết đồng trinh hay theo về báo con bắt cháu. Nhất là cô có cả mấy đứa con cháu còn thơ. Ai cũng bảo có kiêng có lành, hay là mình nói với Bà Hương vậy.

 

– Tôi nghĩ bà không dám trái ý ông đâu, ông luôn bảo tử, thì táng nội trong ngày hôm nay phải lo cho xong việc chôn cất.

 

– Bộ ông không tổ chức đám tang, ít nhất cũng quàn lại mấy ngày cho người ta đến viếng thăm ?

 

– Dù không là tín đồ Hòa Hảo, nước nôi nầy, trong làng đang có bệnh dịch hoành hành ai dám quàn lại ?

 

– Thật là khó ăn khó nói, ông Hương tính tình cương quyết lắm, không dễ gì lay chuyển được đâu.

 

Phương buớc vào nhà, khuôn mặt tái xanh, cô chưa kịp thả con xuống đã hỏi ngay:

 

– Có thật không ? Hay chỉ nằm mơ ?

 

Phiến vừa thấy chị là khóc òa lên, Phương đứng lặng người, con Bé thấy Mẹ về vội chạy lại mừng, mẹ nó ngơ ngẩn, thả thằng bé con trên tay xuống rồi ngồi phệch xuống bộ ván ngựa ôm đầu, hai đứa bé con bị người lớn bỏ quên một góc nhà, ai cũng bận rộn lo việc tang ma, người bàn ra tính vào, nhưng rồi không ai dám thố lộ ý nghĩ, dù trong lòng thật là xốn xang.

 

Đám tang Cô Phi lặng lẽ không kèn trống, ngôi mộ mới nằm trong đất nhà bên cạnh mộ của ông bà. Mấy năm liên tiếp hoàn cảnh khó khăn, thuốc men thiếu thốn, trong làng đang bị bệnh dịch hoành hành, chỉ riêng trong họ hàng, mỗi gia đình đều có người thân, bất luận già trẻ, chết vì bệnh dịch tả, nhà nhà quét vôi trắng xóa chung quanh. Những ngôi mộ mới đắp vội vàng trong nghĩa trang chung phía sau đình làng. Trong trại cưa cây, thợ mộc làm việc thật vất vã cũng không đóng kịp, đôi khi chỉ cưa đóng loại hòm ván xoài ghép lại thật sơ xài để kịp mang đi chôn. Người dân quê vẩn còn tin tưởng vào bùa phép, thầy pháp được dịp, bày các chuyện lễ cúng, và luôn bận rộn với những buổi lể cúng kiến trừ tà ma, những tiếng trống kèn vẩn vang lên hàng ngày, con sông nhỏ không ngày nào vắng những chiếc bè chuối cắm cờ xanh đỏ gọi là bè tống dịch. Khu xóm chợ đìu hiu, hàng quán cũng vắng vẽ tiêu điều.

 

Những chuyện lạ lùng sảy ra trong nhà, bắt đầu từ con Bé chơi đùa tinh nghịch bị Mẹ phạt quì, bỗng dưng, cái lư hương trên bàn thờ cô Phi bốc cháy, bao nhiêu chân nhang biến thành tro bụi. Rồi những người đi chợ sớm quả quyết rằng trông thấy cô Phi ngồi ngoài băng đá trước hiên nhà. Tiếp đến, người bạn mua hàng vải còn thiếu tiền, không ai biết là bao nhiêu, lại mang tiền đến trả, bà ta kể rằng tối qua nằm mơ thấy cô Phi về nhắc lại, đã đến kỳ. Chuyện lạ nhất là trong ngày cô mất, khi người nhà chuẩn bị xuống chợ quậnđể báo tin, di dược nửa đường thì trông thấy cô Phương đang tất tả bồng con về thăm. Cô còn nói là ngũ mơ một giấc lạ quá, thấy Cô Phi mang con Bé đến trả lại, còn nói là không thể nuôi được nữa, bấy giờ người nhà mới bảo với cô là cô Phi đã qua đời.

 

Người ta đồn đại cô chết trẻ nên thiêng, hồn còn quanh quẩn chưa siêu thoát, lúc sống cô hay giúp người, nên khi chết cũng không làm hại ai. Người đến giúp việc trong nhà thường bảo nhau Cô thiêng lắm, liệu mà giử gìn, cô ghét những người gian trá, xảo quyệt, lọc lừa. Trên căn gác nơi thờ phượng ông bà, bên dưới có đặt một bàn thờ nhỏ có di ảnh cô, hàng ngày hương khói. Người thì bàn rằng cô chờ Cậu Trung về hỏi, hai người khi xưa đã dặn dò, thề hẹn, bởi vậy cô mới không lấy chồng, giờ mất đi còn vướng lời thề nên không thể siêu thoát.

 

Những chuyện đồn đãi lần lượt đến tai ông bà Hương, hai người để tránh chuyện bàn ra tán vào, nhất là còn lại mấy đứa con gái trong nhà, người ngoài không hiểu sẽ sinh ra lắm chuyện lôi thôi. Ông bà chọn ngày tốt, đến lễ với Sư bà xin dọn bàn thờ gởi cô Phi lên chùa trú ngụ.

 

Ban đầu thì cũng chẳng có chuyện gì sảy ra, ai cũng nghĩ là chuyện đã xong, cho đến những ngày trăng sáng, có người phát hiện bóng cô gái áo trắng thoạt ẩn hiện như bóng ma, thường ra vào Quan Âm Các, cô ta chỉ thơ thẩn dưới bờ sông hay trong vườn, chẳng quấy rầy ai, hỏi lại thì không ai biết tên tuổi cô, người địa phương nào, chỉ biết là cô hay đeo xâu chuổi ngọc trai và khuôn mặt lại giống hệt như bức ảnh thờ của Cô Phi đặt bên nhà vong sau hậu liêu.

 *****

Sư cô dứt lời thì đêm đã xuống từ bao giờ, người đàn bà đưa đôi mắt láo liên nhìn ra trước sân, từ đây xuống bến sông phải di ngang qua khu vườn hoa, bà ta không muốn nhớ lại cái bóng trắng và khuôn mặt xanh xao của cô gái. Sư cô như thấu hiểu sự sợ hãi bâng quơ của bà.

 

– Mô Phật, đã muộn rồi, trời sáng trăng, để Sư Cô đưa bà xuống bến.

 

– Dạ.

 

Mặt trăng đã lên trên đỉnh đầu, ánh sáng thật dịu dàng, người đàn bà đi theo sát cái bóng áo nâu của Sư cô, dưới mé sông, hàng dừa rũ bóng lá reo vui xào xạt, chiếc xuồng cột lúc ban chiều, mũi xuồng ghìm xuống theo con nước lớn kéo căng sợi dây mắc xích, vói tay cầm sợi xích thả vào khoang mũi, nhổ lấy mái dầm cắm bên cạnh, vừa đẩy xuồng tách bến, bà chào Su cô lần nữa, nhìn lên sân chùa, bên cạnh pho tượng hiền hòa của Đức Quan Thế Âm hình như ẩn hiện cái bóng áo trắng chập chờn, bà ta cắm cúi bơi thật nhanh tay.

 

 

Vũ Thị Thiên Thư

 

 

 

 

Bác Ba Sắc

Bác Ba Sắc

Chưa vào tận cổng, chưa kịp báo tên Sắc gọi to vào trong đồn lính
– Paul, có gì giải khát không ? Moa vượt sông cái, nắng chang chang, khát lắm rồi
– “ Oh! Bon Jour …” Vào đây, gió nào đưa Toa qua đây ?
– Gió độc. Moa phải đi ngay về, cho moa uống gì đi chứ, giải khát trước rồi nói chuyện sau.
– Có ngay, Moa còn chai Couvoisier nầy mới, chưa khui, để dành bấy lâu.
– VSOP , Toa sang thế
– Quà tặng, chờ khách quí,
– Mời
Nâng hai cái ly nhỏ, chạm thành ly vào nhau, màu rượu hổ phách lóng lánh, câu chúc vừa xong, hai người ngồi đối diện, bên cái bàn làm việc bề bộn giấy má. Sắc nhồi thuốc lá vào ống vố, rít một hơi, nhả khói lên trần rồi thong thả quay sang hỏi Paul
– Nghe nói Toa đang giữ một người đàn bà ?
– Trời, tin tức đâu mà nhanh vậy ? Nhưng không phải như Toa nghĩ, đừng có méo mó nha, Moa đang điên đầu với bà ta đây
– Moa không lạ gì , bà ấy là …
Paul giơ tay lên chặn lại, ngắt lời Sắc
– Ý moa muốn nói là, dù đàn bà nhưng không phải như toa nghĩ. Bà nầy không biết mắc phải bệnh gì, suốt ngày hôm nay, bà hành mấy tên lính khờ người, thường khi dễ gì sai bảo bọn chúng, vậy mà bà bắt chúng dọn dẹp, lau chùi, Toa nhìn sân cỏ ngoài kia, sạch bóng rồi, phía sau trại lính giống như gian hàng bán giường chiếu, chưa kể mền khăn phơi dài trên hàng rào, Trời đất ! Moa thật không biết tại sao chúng nghe lời bà răng rắc. Giữ lại thì không biết giam giữ chổ nào , thả Bà ta ra thì cũng không biết ăn nói làm sao.
– Thế Toa có biết Bà là ai không ?
Ném xấp giấy trước mặt Sắc, Paul trả lời
– Biên bản nè, Toa xem đi tên họ …
– Moa không cần phải coi giây tờ gì hết đâu, mà toa thật không biết bà là ai sao ?
– Đã bảo Bà khai tên họ rõ ràng rồi , không chiụ đọc …
– Ông bạn ơi! Bà là Mẹ nuôi cuả Moa, kể chuyện cho bạn nghe hoài đó mà, Thím thì đúng hơn , nhưng Thím nuôi moa từ tấm bé, lúc cha mẹ mất, không có Thím thì moa làm gì có ngày nay, bạn bắt nhầm bà cụ vào đây , cho nên moa phải về nhanh như vậy.
– Trời đất, thật vậy sao ? Xin lỗi, moa sai chúng mời Maman lên ngay, chết rồi, sao nãy giờ toa không nói gì hết vậy.
– Nói gì, có kịp nói được chút nào đâu, nầy bạn , bà là Bà Hương Cả trong làng đó, bọn lính biết Bà nên mới chịu nghe lời răng rắc như vậy, có gia đình nào mà không từng được bà giúp đỡ đâu, thuở vải vóc khan hiếm, bà xuất tiền ra mua cả gian hàng vải giúp người nghèo, vì trong làng có người không còn quần áo, phải mặc bằng bố tời đó, ai đến xin thì bà phát cho hai thước về may, cả bên Thuận Hưng còn kéo về. Còn cái bọn lính dịch ? À! Chúng nó từng ăn cơm trong nhà bà, từng ngửa tay nhận phát chuẩn gạo thóc ..chúng lạ gì bà.
– Sao không ai nói gì với moa hết ? Mau bảo chúng mời …
– Moa phải thân hành xuống mời bà lên, Bà biết Moa về rồi đó, bằng không bà chờ lâu lại mắng cả Toa.
Hai người bạn theo chân nhau vào phòng làm việc, Bà Hương đang cầm cái quạt mo phe phẩy, Sắc vội vàng cúi đầu thưa:
– Thưa Má, con mới về.
– Ừ, sao về chậm vậy ? Ngược nước hay không đủ bạn chèo? Uống mấy ly rồi ? Chưa ngã bóng mà mặt mày đã đỏ gay rồi con.
Paul bước tới , cuí chào Bà
– “ Măng “ Con xin lỗi, vì không biết nhau, nên sự thể mới …
– Ối, không cần đâu, thôi ở đó mà lo xin lỗi xin phải gì, ông có muốn phạt vạ bao nhiêu thì nói phứt ra cho xong đi.
– Oh ! Không dám, thôi xí xoá hết, mời Măng lên trên uống nước rồi Sắc sẽ đưa Măng về, mọi chuyện coi như không hề sảy ra. Con xé biên bảng ngay lập tức.
– Cám ơn, thôi khỏi nước nôi gì hết, biểu bọn đàn bà kia từ nay có đi chợ thì cẩn thận, bạn hàng chợ không phải là thứ hiền lành, làm phách làm lối thì bị chúng nó đánh không ai dám can.
Quay sang Sắc, bà bảo
– Đưa má về bên nhà đi con, để bầy trẻ ở nhà lâu quá thật là nóng ruột, không ai kềm chế, tụi nó lại làm bậy mất công.
Bà che miệng ngáp dài
– Má đã nhịn trầu gần cả ngày nay, về nhai một miếng cho đã thèm.
Bà đứng dậy, choàng cái khăn lụa che mái tóc, đủng đỉnh bước ra cửa, nheo mắt vì ánh sáng buổi trưa, giương dù lên che nắng. Sắc vội vã đỡ cán dù, bước theo, nháy mắt với Paul, đang đứng khép một bên nhường đường.

Vũ Thị Thiên Thư
[ Còn tiếp ]

Mụ me Tây

MeTay

Do Hiền Vy diễn đọc

Mụ Me Tây

Giằng lấy cái rổ, trút con cá vào giỏ, ném tờ giấy bạc Đông Dương xuống mụ đỏng đảnh bước đi, đôi bàn tay đong đưa, mặc cho người đàn bà nhà quê chạy theo nằn nì:
– Bà cho cháu xin thêm tí tiền, nhà có giỗ, chỉ có con cá nầy bán ra để lấy tiền mua nhang đèn …
– Bà trả bấy nhiêu là tốt rồi, xéo đi cho khuất mắt bà.
Người đàn bà nhà quê cúi xuống nhìn tờ giấy bạc trong tay, bây nhiêu đây chưa mua đủ đèn nhang, thì còn nói gì đến rau quả ?? Nuớc mắt chợt lưng tròng, chị ta ngồi bệt xuống, kéo lấy ống quần lên chùi ngang mắt.
Cô gái trẻ dừng chân lại, nhẹ nhàng hỏi:
– Chuyện gì thế, tại sao chị ngồi khóc giữa chợ ?
– Dạ bà ấy cướp của con, con cá lớn như cái chình, vậy mà trả có bấy nhiêu thôi Cô Hai à.
Quắc mắt nhìn theo dáng điệu kênh kiệu của mụ Me Tây, Cô Hai bước nhanh theo, chắn ngang đường, nhìn thẳng vào mụ ta, cô Hai trầm gịong:
– Chị kia có trả thêm tiền cho người ta không ? Con cá đó giá ít nhất cũng ba lần tiền, định ăn cướp của dân nghèo giữa ban ngày à ?
Ngạc nhiên nhìn cô gái nhỏ nhắn đang đứng chắn lối, con nhỏ nầy lớn gan thật, chưa biết bà là ai sao , giỡn mặt sao. Bà ta cao giọng
– Bà trả bấy nhiêu đó thôi, con nào giỏi thì làm gì bà ?
– Không trả đúng giá tiền thì phải trả cá lại, có thế thôi.
Thò bàn tay mềm mại, những ngón tay dài thon thả, làn da mịn màng, nhưng khi nắm lấy cổ tay của mụ me Tây, xiết cứng như gọng kềm, đau quá, mụ buông rơi cái giỏ. Cô Hai lẳng lặng trút con cá, ném cái giỏ xuống đất rồi đi thẳng, không buồn ngó lại. Mụ Me Tây bất ngờ, chưa kịp hoàn hốn, vội chay theo níu vạt áo cô ta lại:
– Con cá nấy của bà mua rồi, đố con nào dám lấy lại.
– Tôi lấy đây, Bà không buông áo tôi ra, đừng trách sao tôi nặng tay.
Nói vừa dứt tiếng, Cô Hai gạt tay mụ ra, mang con cá laị trả cho chị nhà quê, diụ giọng :
– Con cá nầy tôi mua lại cuả chị, tiền đây, chị đi mua nhang đèn mà về lo cúng giỗ. Đi đi.
Chị nhà quê mừng rối rít, chắp tay xá Cô Hai rồi tất tả cắp rổ đi.

Ti nhìn chị Trân đang gọt trái cam trên tay, từng vòng xoay đều đặn, vỏ cam biến thành một sợi dây dài xoắn ốc, bàn tay chị cầm con dao nhỏ, trông nhẹ nhàng quá. Ba thường bảo chị giống hệt Cô Hai. Đúng vậy, Chị Trân khi mới sinh, cô Hai bồng chị ra cho Nội nhìn, Ông chỉ lặng lẽ bảo mang vào cho Bà Nội. Ông muốn cháu trai để nối dòng dõi. Nhưng cô Cháu Nội đầu tiên nầy là người theo Ông khắp nơi, từ lúc còn thơ, Ông cưng chiều rất mực, mặc dù vẫn kém anh “Tư Cao“, người chính là cháu đích tôn của Ông, Ba nói Ông theo người xưa, không thể thoát ra khỏi cai vòng “Trọng Nam Khinh Nữ“, nhưng chớ có dại, tưởng Ông không cưng cô cháu Nội mà lầm. Ông chẳng từng lặn lội tìm mua con chó Kiki, là giống chó săn của Đức, mang về làm hộ vệ cho cô cháu cưng. Lại còn cõng con bé bao nhiêu lần vượt qua sông rạch …chỉ vì cô tiểu thư gớm bùn, không chịu bước xuống. Cho dù thức khuya đến mức nào, cũng dẫn cháu đi xem tế Thần, chỉ vì cô cháu Nội cưng tò mò muốn tìm hiếu thêm phong tục. Có thứ gì Cô muốn mà Ông không tìm cho đâu, ngay cả chuyện muốn xem cái Sắc Thần chứa trong hộp sơn son thếp vàng đặt trên khánh thờ, cô cũng lén vào nhìn trộm.

– Chị Trân nè, vậy Mụ Me Tây để yên cho Cô Hai sao ?
– Ti, em từ từ chứ, sao lại yên được cưng ??

Vũ Thị Thiên Thư
[ Còn tiếp ]

 

Bà Nội ngồi tù

Bà Nội ngồi tù

Bà Hương vừa bước tới đầu chợ, mấy người đàn bà nhà quê đang bu quanh đám đông, vội vã rẻ ra nhường chổ cho bà bước vào. Nhìn hai cô con gái đứng trước mắt thách thức anh Tây không hề sợ hãi, Bà bảo :
– Hai đứa chưa chiụ về , còn chờ gì ? Mau gọi bầy trẻ lấy ghe sang sông đón Anh Ba chúng bây về lo việc nhà , lẹ lên cho kịp con nước.
Bà quay sang nói với anh lính đang tần ngần
– Nhà ngươi đi trước đi, ta không chạy trốn chổ nào đâu mà lo.

Mấy người dân đang làm tạp dịch chung quanh đồn ngạc nhiên nhìn Ông Tây và đám lính dẫn theo người đàn bà nhỏ nhắn, áo dài the, khăn luạ trắng, bà ta che dù đủng đỉnh đi không có vẻ gì hấp tấp, sợ hãi. Vừa thấy mặt bà, ông lục lộ vội chắp tay chào:
– Dạ con chào bà Hương
– Ừ, chú Hai lo làm xâu dịch đi, để mặc tôi.
Theo chân mấy anh lính, quanh co qua các chướng ngại vật trước cổng, bước vào trong bót lính canh, vượt qua hàng rào kẽm gai , những lá chắn bằng khung cây tạp, đóng thành hình chữ A , từng khối tam giác giăng dây kẽm gai , dựng theo chữ chi, phiá sau đó là công sở hay văn phòng làm việc. Bước hẳn vào phòng, bà thong thả xếp dù lại, đưa mắt nhìn một vòng chunh quanh, vói tay kéo chiếc ghế đẩu lại trước bàn viết, rút chiếc khăn tay ra phe phẫy buị bậm trên mặt ghế, nhẹ nhàng ngồi xuống trước mặt anh đội Tây chờ đợi.
– Bà tên là gì ?
– Tên trong căn cước là Phạm Thị Anh.
– Nghề nghịệp ?
– Làm ruộng , nội trợ.
– Bà có biết tội đánh lính Tây là đóng trăn, đi tù không ?
– Thế thì tội thả lính đánh đập đàn bà trẻ con thì xử ra sao thưa ngài ?
– Bà dám cật vấn quan ?
– Phụ Mẫu Chi Dân, tôi tưởng bổn phận cuả các quan lớn là lo cho dân như cha mẹ nên mới hỏi cho biết vậy mà.
– Bà lôi thôi quá, trả lời câu hỏi cuả tôi, chờ tôi hỏi mọi chuyện rồi sẽ phân xử sau.

Ti tròn mắt nhìn Chị Trân:
– Bà Nội dám hỏi vặn ngược lại ông quanTây sao ?
– Em à Bà Nội có sợ anh Tây nào đâu mà không dám ? dù rằng Bà rất nhỏ nhắn, đứng thua anh Tây cả cái đầu. Bà Nội cuả mình mồ côi Cha từ thuở bé, không được đi học, không biết đọc biết viết. Lúc kết hôn với Ông Nội, về làm dâu , làm vợ, ông mới biết bà mù chữ. Nhưng Bà rất chiụ khó, khi ông Nội mở trường khai lớp, Bà sang xin Thầy Giáo bài học về tự học. Vây mà Bà đọc đưoc, dần dà đọc cả truyện thơ , Truyện Kiều, truyện Lục Vân Tiên ,,, nhất là thuộc lòng cả quyển Sấm Giảng của Đức Thầy. Ngoài trí nhớ dai, Bà rất khéo léo trong công việc nột trợ, bánh trái, nấu ăn, Bà dạy các cô rất nghiêm, con gái trong nhà phải học đủ các thứ, từ may vá, thêu thùa, cho đến nấu ăn, bánh trái. Các Cô trong nhà mình nổi tiếng khéo léo đó em à. Mẹ còn giữ chiếc áo len Cô Hai móc cho chị lúc còn là em bé, aó theo kiểu cánh sen màu sắc hài hoà, thanh nhã lắm, lúc chị lớn lên, len cuả chiếc áo mục rã từng manh, chị tiếc vô cùng. À! chị kể đến đâu rồi em ?
– Ông Tây đang khẩu cung Bà Nội đó chị. Bà Nội có bị giam trong đồn lính thật không chị ?
– Thật chứ em, nhưng mà buồn cười lắm. Ông Tây không biết giam bà vào chổ nào, vì Bà không giống dân mà cũng chẳng ra quan, lại là phụ nữ, Ông mới đổi về đồn ít lâu thôi, chưa biết rõ tình hình trong làng, cũng chưa từng đi tuần tra, giao dịch với người dân, chỉ nghe lời mấy người đội xếp tâu cáo. Trong công sở vỏn vẹn có bàn ghế sơ sài để làm việc, đồn lính thì bên cạnh, nhưng khu chuồng cọp bên ngoài để nhốt bọn lính phạm tội, nhìn lại người đàn bà, khăn lụa áo the, phong thái an nhiên, nói năng chững chạc . Ông đành phải bảo bọn lính tạm giữ Bà trong phòng làm việc, đã thế Bà còn chê phòng ốc lôi thôi dơ bẩn , bảo lính đi múc nước, lấy giẻ lau, chổi chà , bà xăn tay áo dài, chỉ họ chùi bàn ghế, quét tước từ trong ra ngoài, mang khăn chiếu treo lên hàng rào phơi nắng, mà cũng lạ, bọn lính thường ngày chúng lì lợm, hầm hừ, nạnh hẹ, cải nhau chí choé, vậy mà lại răm rắp tuân lịnh người đàn bà nhỏ nhắn nầy …

Khi cô Hai về đến nhà, vội vã bảo người làm gọi bạn chèo lấy ghe tam bản nhỏ, hai người bạn, bốn tay chèo , một người đứng mũi , một người giữ lái, lập tức vượt sông Cái, sang bên Cù Lao đón anh Ba Sắc về ngay.
Khi người nhà vừa cập bến , báo tin Thím Hương đang bị Tây giam, không kịp chờ người theo hộ vệ , Ba Sắc nhảy xuống ghe hối bạn chèo thật nhanh về làng.

Vũ Thị Thiên Thư
[ Còn tiếp ]

Ỷ mạnh

Ỷ mạnh

Trở chiếc cán dù, dùng chiều cong như cái móc, cài vào cổ tên vô loại, gặt nhẹ cổ tay, hắn chới với, bật lui lại, mất thăng bằng ngã vào thùng nước rộng cá cuả bà bạn hàng, tôm cá và nước dơ bắn tung toé. Hắn đứng lên, sừng sộ quay phắt lại, một đời hắn cũng không ngờ, chỉ có người phụ nữ mảnh mai kia, đang đứng chống dù nhìn hắn, nhìn lại lần nữa, không còn một ai, ngoài những người hiếu kỳ đang dàn thành vòng tròn, họ chờ đợi tấn tuồng sẽ diễn ra. Chưa kịp cất tiếng, cô gái trẻ với hai bính tóc rẻ đám đông bước vào, hai khuôn mặt hao hao, chỉ có màu da rám hồng cuả người phơi ngoài nắng nhiều hơn trong nhà. Cô ta trừng mắt nhìn hắn, hỏi trống không:
– Muốn đánh nhau ? Làm tàng hả ? Đánh phụ nữ ?
Quay sang người phụ nữ, cô ta diụ dàng:
– Hắn làm phiền chị ? Muốn em đánh nó không ?
Người phụ nữ chậm rãi móc chiếc khăn luạ thêu tay, nhẹ nhàng lau chiếc cán dù, hành động như không cần thấy tên côn đồ đang sừng sộ, chỉ ngại làm dơ chiếc cán dù yêu quí. Giọng nói thật diụ dàng:
– Không cần em ạ, chỉ bẩn tay, về đi.
Tên vô loại không dằn được, khuôn mặt đỏ gay vì giận dữ, cánh tay giơ lên, chưa kịp gạt ngang thì “chát “, má rát rạt, hắn lùi lại, nhìn người phụ nữ đứng trước mặt, Cô ta an nhiên đưa ánh mắt lạnh lùng nhìn hắn, xoa má, hắn không thể hình dung đôi bàn tay nhỏ nhắn đó vừa tát mình, tiếng cười cô bé như châm thêm dầu:
– Đáng đời, định đánh cả trẻ con à ?
– Người chạm vào một sợi tóc cuả em, người sẽ ăn roi, về mà gậm nhấm, ta không nói suông.
– Đánh đi cô hai, phường vô lọai, thứ ỷ mạnh chỉ biết hiếp đáp phụ nữ tay yếu chân mềm, nay gặp hai cô.
– Chị cho em đánh nó một trận, em gai mắt lắm rồi, thứ súc sinh nầy, chưa đánh què tay nó, em chưa thoả mãn.

Ti quay sang nhìn đôi bàn tay cuả chị, mê mải nghe chị kể chuyện, nhìn lại trái thơm trên tay chị Trân, từng lớp vỏ, từng mắt thơm, từng lát dao cắt hình chữ V, chạy theo hình nghiêng, đều đặn, đẹp như vẽ. Ba vẫn khen chị Trân khéo, mà mình còn mê nghe chị kể chuyện hơn. Chưa bao giờ được về thăm quê nhà, miền quê hương tuổi nhỏ của Cha, cuả các chị , được chị Trân vẽ ra đầy màu sắc.
Sinh ra và lớn lên, Ti vẫn chưa bao giờ hình dung được căn nhà Tổ Đường, do chính bàn tay Nội gầy dựng lại. Hỏi trăm câu hỏi, về những người phụ nữ trong gia đình, về bà Nội, người chuyên kể chuyện vui , tính hài hước cuả bà Nội , do các chị kể lại chưa hết…Nhất là Chị Kim, mỗi lần chị sang đây, nghe chị kể chuyện, bảo đảm sẽ cười lăn xuống ghế, cười đau cả bụng, mỏi cả xương quai hàm…Chị kể mãi không dứt …
Ba bảo: “Học tính khéo léo, trầm tỉnh cuả chị Trân, vui tươi chọc cuời cuả chị Kim, giỏi giang cuả Chị Mai, ngăn nắp kỹ lưỡng cuả chị Mây…” Ôi ! Học hết mấy chị thì Ti cũng đến già mất.
– Chị Trân nầy, Cô Hai có thật giỏi võ không ?
– Có chứ em, Ba chị vẫn thường kể lại. Nghề cuả Cô là Nhuyễn tiên, đánh roi mềm đó em, cô nhanh nhẹ, đánh như lướt, Cô từng đánh trặc tay chú Ba Vinh, các Cô Chú học cùng thầy, là người nhà.
– Sao vậy chị, người nhà mà, đánh cả người nhà sao ?
– Không đâu, dạy bài học đó em, tính cô nghiêm lắm, rất ghét người hạ tiện, Chỉ vì Chú Ba lỡ đòn, đánh với người yếu hơn, Cô Hai kỵ tuyệt đối bọn ỷ thế mạnh, nên mới ra đòn nặng với Chú, đánh chú lọi tay, vậy mà Bà Năm không dám hở răng mách với Nội.

– Vậy Cô hai có đánh caí tên vô lại kia không chị ?
– Ti, em từ từ chứ, chị sẽ kể tiếp mà, còn Bà Kế Hiền …Bà mới chính là người …Những người phụ nữ mong manh trong nhà …còn nhiều người chẳng sợ anh Tây nào lắm …

Vũ Thị Thiên Thư
{còn tiếp }

Chiếc áo tri thiên mệnh

Chiếc áo tri thiên mệnh

 

 

Những đêm khi các con đã yên ấm trong chăn nồng thì mẹ vẫn còn lọc cọc cắt may. Mỗi lần bạn bè họp nhau cuối tuần lại thấy các con diện bộ cánh mới đi chơi. Con trai thì như cậu hoàng con, áo sơ mi trắng, áo khoát ngắn mặc ngoài, Trân cũng một bộ cánh mới toanh, trông xinh xắn như con búp bê …

 

Ngày lang thang với nhau, trong khu thương mại, rẽ vào một cửa hàng bách hóa, Thu dạo một vòng, mang lại mấy cái áo đủ màu, cẩn thận ướm vào cho chị rồi khen:

– Chị à! Em thấy cái nầy coi cũng được quá đó, chị vào trong mặc thử nhé ?

– Nhỏ à! Đẹp thì có đẹp, nhưng chị không cần, bây giờ ít khi đi đâu, mua mà không mặc treo hoài cũng bám bụi thôi .

– Thì thỉnh thoảng chị đi ăn tiệc mặc cũng được vậy.

 

Tiệc tùng gì nữa em, cuối tuần gặp nhau, dăm ba người bạn vong niên, trẻ nhất cũng đã tri thiên mệnh, ngất ngưởng khề khà, chuyện trời đất mênh mông, chén anh chén chú . Cuối cùng cũng trở lại…” Phụ phù phu..” (*) Lặng lẽ dìu phu quân ra xe, miên man lái về, có khi nửa đêm, có khi gần sáng, như vậy cũng xong một cuối tuần yên giấc.

Bạn bè dăm ba người đếm trên đầu ngón tay, như cái vòng lẩn quẩn, gặp nhau chút chuyện cười đùa cho qua tuần trả nợ áo cơm. Trong sở thì một năm đôi ba lần khao thưởng, cưới xin dăm mấy khi mới có dịp, lúc đi mừng thì bỗng dưng thấy mình trở thành trưởng thượng ăn trên ngồi trước. Bước lên hàng cô bác, ai lại mang mặc bộ cánh của thời thanh niên, vào ra cùng bầy trẻ thì thật là chướng mắt. Nhưng cho dù có tha thướt trong áo dạ hội thì vẫn nhớ tà áo dài quấn quít theo từng bước chân.

Hàng năm, ngày liên hoan cho toàn thể nhân viên, bạn bè thường đùa nhau là “JCP Prom night “, từ mấy tuần lễ trước ngày đã ríu rít hỏi nhau, ” Chọn được áo chưa? Màu gì …” xôn xao như bọn trẻ. Lần nào cũng đứng trước gương nhìn lại tủ áo, rồi mang mấy chiếc áo dài ra nâng niu vuốt nhẹ, lụa mịn màng dịu mát dưới làn da tay, bâng khuâng.

 

Một lần nọ, cơn nhớ nhung dâng trào, trong buổi tiệc liên hoan, cứ phân vân, nhìn hàng áo, nhớ quá, chọn chiếc áo dài in hình lá phong, lụa mềm mại.

Trời tháng mười, thêm chiếc áo khoát mỏng che hờ trên vai, phòng tiếp tân ngợp màu sắc, bao nhiêu là áo kim tuyến lấp lánh, ngũ sắc loang loáng như vòng cầu, khi bước vào, vừa cởi chiếc áo khoát, trao lại cho người nhân viên phụ trách việc máng áo vào phòng chứa, còn đang đứng chờ một chút, cho đôi mắt quen với ánh đèn, và sẽ đi tìm chỗ ngồi, bạn bè chạy lại xúm xít, tên nầy lại vuốt áo, tên kia bấm máy ảnh…

– Áo của Bà kiểu lạ và đẹp quá, gọi là gì vậy ?

– A! Aó dài, đây là quốc phục của phụ nữ Việt Nam chúng tôi.

– Không ngờ quốc phục của bà vừa kín đáo lại tha thướt, cho dù che kín cả người không phơi bày một mảnh da, nhưng lại không che hết các đường cong trên thân người, thật là mong manh và quyến rũ…

Những năm sau nầy không còn tay bế tay bồng, không còn phải khư khư nắm chặt tay hay tất tả chạy theo, mỗi năm Tết về, tôi lại cắm cúi ngồi may áo dài đi chưng diện. Dần dà mùa đông hay mùa hè, mỗi khi cần phải đi dự tiệc tùng quan trọng hay đi ăn mừng lễ lộc cưới xin, áo dài vẫn là chiếc đầu tiên và cuối cùng tôi chọn lấy.

 

Mùa hè, nắng Ngũ Đại Hồ và không khí ẩm đầy hơi nước, sức nóng ngột ngạt như những ngày còn thanh niên ở quê nhà. Bọn chúng tôi bước dần vào tuổi tri thiên mệnh, nhìn những mái tóc nhạt dần theo màu thời gian, sợi trắng lấn sợi màu. Bạn bè mỗi lần họp mặt nhau, không phàn nàn về một căn bệnh vừa chớm phát, thì sẽ thở than về bóng chiều lăm le trên ngưỡng cửa.

Tôi và cô bạn nhỏ tuổi hơn đang ngồi chuyện trò, chợt cô đá vào chân tôi và nhìn ra cửa. Theo ánh mắt của cô, tôi nhìn mà ngữ ngôn bay biến. Một bà bạn khác của chúng tôi, tuổi tác có hơn tôi dăm ba năm, tôi cố không nhìn bà mà thở dài, chờ cho bà đi khuất, cô bạn nhỏ quay sang

– Mai mốt nhỡ em có thay đổi tính tình, sinh tâm, chị ráng gõ vào đầu cho vài cái nhé, kẻo em làm trò cười cho thiên hạ…

– Ừ nhỉ, người đi trước là chị đó, nhỡ chị có làm chuyện không giống ai thì cũng nhớ chặn lại, nhất là, khi có dịp gặp nhau nhớ nhắc nhở trông chừng cho nhau.

Bà bạn tôi, tấm thân nẩy nở theo những chiều không cần thiết, chiếc áo cánh phơi một vùng thiên nhiên màu mỡ, chiều dài chưa giáp thắt lưng, chiếc quần jean bó sát đùi, bày ra từng ngấn thung lũng chìm sâu. Tôi lắc đầu, dù cho có muốn cố gắng kéo lại thanh xuân, trong mỗi người chúng ta, nhưng tôi thật không có can đảm khoát lên người bộ áo cánh non nớt, riêng dành cho các thiếu nữ trẻ trung vào thời mới lớn, và còn ngang nhiên bất chấp , nhởn nhơ phơi bày ra trước nhãn quan thiên hạ.

Cô bạn nhỏ và tôi, điều chúng tôi lo ngại nhất là khi đến tuổi tri thiên mệnh, sự mất quân bình kích thích tố, tính tình đột nhiên thay đổi, hay làm những chuyện.. “out of line ” hay nói cách khác đi làm trò cười cho thiên hạ, như bà bạn tôi đang làm.

Đã lăm le vào tuổi năm mươi, tôi hiểu rất rõ là mình đang nắm níu, cố gìn giữ xuân xanh, tươi trẻ, nhưng không có nghĩa là ăn mặc như vậy, nhất là khi thân hình đã qua bao nhiêu lần cưu mang, không còn rắn chắc như thuở trước, vòng eo thon thả ngày nào đang có khuynh hướng tăng trưởng, những bắp thịt tay chân cũng nhão nhoét theo thời gian.

Tôi nhìn xuống đôi bàn tay của chính mình, những ngón tay thon thả ngày nào vẫn còn dài dặn, nhưng những lằn gân xanh chằng chịt đã ló dạng. Khi đứng nhìn chính mình trước gương, những nếp nhăn trên trán, nụ cười kéo theo đuôi mắt, có thể che đậy bằng phấn son trang điểm, nhưng không thể dối chính mình. Điều quan trọng là có giữ được cho chính mình cái nhân cách, cái bình an cho tâm hồn? Tươi trẻ không có nghĩa lố lăng, ăn mặc diêm dúa không hợp tuổi tác, nhất là đã bước vào cương vị cô bác trong nhà.

Điều khó khăn nhất là chiến đấu với chính mình, với bệnh tật, với triệu chứng, những ngày mưa sắp về, từng lóng tay, khớp xương đã báo trước, những lúc nóng lạnh bất thường, gánh con gánh cháu… cùng lúc với người bạn đời tuổi cũng sắp bước vaò thời kỳ viên mãn, chọn cho mình con đường nào để đi, nẻo nào để rẽ, quả là nhiêu khê…

 

Bạn tôi, chị cũng hơn tôi mươi tuổi, con cái đã thành tài, đứa nào cũng xong đại học, rồi cũng gia thất đề huề, mổi đứa một nơi, bờ tây Thái bình dương nắng ấm, ven đông Đại Tây dương bão bùng, năm một lôi hai năm, đứa gọi Mẹ ơi ới, chị bay sang đông nuôi con dâu dược tròn tháng thì lại bay về tây con gái đang chờ ngày… Khổ nổi anh hãy còn đang làm việc, phải chờ đợi vài năm nữa thì mới đủ tuổi để về hưu.Lại lếch thếch cơm cá đông lạnh ăn hàng tháng hàng ngày, lủi thủi cạo tuyết sớm mai, vào ra quạnh quẽ.

Nhớ lại những tháng năm chị còn bồng chống bầy con dại ở quê nhà, anh một thân một mình theo tàu vượt khơi, sang xứ lạ quê người, nhớ vợ con hiu hắt. Ngày cắp sách, tối đi làm, một nắng hai sương, dành dụm, mang được vợ con sang thì lại tiếp tục hai sương một nắng lo cho bầy trẻ nheo nhóc, đứa vào trung học, đứa vào tiểu học, đón đứa nầy, đưa đứa kia, ngồi xuống dạy kèm đứa lớn, quay sang giảng bài đứa bé… Cho đến khi chúng vào đại học, lần lượt thành tài, đi xa theo công việc, còn lại hai vợ chồng vào ra có nhau, sớm hôm bầu bạn. Mọi người nhìn anh chị trêu là bây giờ mới là tuổi vàng son như thuở… Chưa được bao lâu thì chị lại khăn gói sang đông, về tây…Anh lại một mình sáng cơm tay cầm vào sở, chiều về bạn với microway, thức ăn trong tủ đông đá mang ra nuốt vội, chời giờ giấc vào phôn vợ dăm câu, hỏi thăm chút sức khỏe hàng ngày, và đi ngủ, chờ sớm mai lập lại.

 

Bạn tôi, chị và phu quân hơn bốn mươi năm hương lửa, anh thuở xưa lấy quân đội làm nghề, lang thang ngày nầy tháng nọ. Chị ở lại quê nhà giữ một mựchiếu hạnh dâu con. Cái máu cuộc cờ chén rượu, anh đàn đúm bạn bè, chị không hề hé răng, hàng tháng tay bồng tay dắt, tay xách nách mang, gói ghém chút thức ăn, con cá khô quê nhà, hạt gạo hương lúa mới, chẳng lạ gì tính hào phóng của chồng, mang theo các thức để chia chát cho cả bạn bè. Ngày vất áo trận tiền, nắm níu vợ con, anh trốn lại lặn lội về quê nhà nhìn bầy con nheo nhóc, thở dài, dắt díu nhau tìm vào tận đồng ruộng xa xôi, đốn tre lợp mái lá, trồng luống rau, ngày cuốc đất ẩn thân, đêm nhìn sao hiu hắt. Thầm tính toán, chạy đáo chạy đôn…

Cuối cùng, bồng chống xuống con tàu lênh đênh, mang được vợ con tơi tả sang Bidong bi đát, đốn cây lợp mái chai tay, cắt nhánh chặt cành, gánh củi oằn vai, rồi cũng theo nhau về định cư xứ lạ quê người, bầy con như lúa xạ, lớn theo năm tháng, cũng phu thê, cũng con cái đề huề, cũng chén anh chén chú. Ngồi lại cùng nhau, chị vẫn dung nhan tươi cười, đơn giản.

– Ậy cái số mà, chạy nắng chớ không ai chạy trời, hồi đó ông già không chịu gả, đã từ chối rồi, ai lại đi hỏi nữa, vậy mà ông già chồng nhứt định hỏi cho bằng được.

– Ừ, hồi đó anh cũng bê tha, bồ bịch tùm lum, ai lại về quê cưới vợ bao giờ, ông già nhứt định lôi về, đám hỏi mà chưa gặp nhau nữa là, vậy mà hơn bốn chục năm đó.

Anh chị cũng con đàn cháu đống, các con quây quần chunh quanh, cách nhau không hơn nửa tiếng lái xe, cuối tuần trong nhà vang tiếng trẻ. Có đứa vào đại học, có đứa không, nhưng cũng cửa nhà êm ấm, cuộc sống bình an. Hai vợ chồng đi làm hàng ngày, chiều về anh khề khà lon bia, chị bên cạnh, khi thì tuồng cải lương trong máy, khi thì hài kịch, phim tuồng. Con cháu đi học về, hôm nào ghé ngang thì bà xới cho chén cơm, khi thì khứa cá kho, lúc thì miếng sườn nướng… Mỗi năm, ngày sinh nhật anh, chúng mang lại, đứa thì chai Cognac, đúa thì con tôm hùm cho Ba đánh chén, sinh nhật chị thì chúng kéo nhau ra nhà hàng Tàu, ăn cho đầy bụng, hể hả mọi người.

 

Hai chị bạn, hai cảnh đời, người thì con cháu quây quần, kẻ thì chạy theo tất bật, cùng lứa tuổi bên trời lận đận, hai ông chồng, người còn đìu hiu cơm canh nguội lạnh, kẻ thì khề khà chén rượu mỗi chiều. Hai bầy con, bên thì danh phận rỡ ràng, nhưng lại quá bận rộn áo cơm, không có thời gian lo chăm sóc con cái, sinh ra thì chỉ mong giao lại cho cha mẹ, đã không lo được miếng ăn, chén nước, còn bấu viú vào công lao cuả Mẹ, tranh nhau từng tháng từng ngày, Mẹ tuổi đã cao, nay chạy sang đông giúp, mai chạy sang tây lo…

Trong khi đó, bầy kia chỉ thì học hành cơ bản, lấy lao động lập thân, chăm chỉ làm ăn, ngày ngày vấn an cha mẹ, khi thì chén rượu, lúc miếng ăn, chưa kể hàng năm lo cho Cha mẹ cuộc nghỉ hè nầy, chuyến du hành nọ, luôn luôn lo lắng tìm cách cho cha mẹ an vui…

Cô bạn nhỏ và tôi, tuổi đời không cách xa nhau mấy năm, con đường tri thiên mệnh kề cận, nhìn hai hòan cảnh khác nhau, trong lúc trò chuyện, vẫn thường hỏi nhau “chúng ta rơi vào trường hợp nào? Dù biết là ngày mai không hứa hẹn, nếu có chọn được thì chúng ta chọn cho mình con đường nào để đi? “

Làm sao có thể chọn được cho mình, và biết rơi vào trường hợp nào? Cầu mong cho con cái thành công và hạnh phúc. Chắt chiu nuôi nấng cho chúng ăn học thành tài, dựng sự nghiệp, lập gia đình, và tiếp tục chạy tất bật theo chăm sóc luôn cho con cái chúng, hay chỉ chờ cho chúng yên bề gia thất rồi vợ chồng sẽ tiêu dao ngày tháng, an hưởng tuổi vàng?

 

Vũ Thị Thiên Thư

 

(*) “Phụ phù phu” Do điển tích trong Văn học: Sư sử sứ – phụ phù phu:

 

Vua Lê Thánh Tôn đi kinh lý, thăm làng Cao Hương huyện Vụ Bản,Sơn Nam, quê hương của Trạng Nguyên Lương Thế Vinh, đến thăm chùa, lúc bấy giờ nhà sư cụ đang tụng kinh, bỗng đánh rơi chiếc quạt, người ra hiệu cho chú tiểu nhặt, nhưng vị quan tùy tùng của nhà vua đang đứng kề bên vội nhăt lấy và trao lại cho sư.

Nhà Vua thấy vậy mới nghĩ ra câu đối :

Đường thượng tụng kinh, sư sử sứ [nghĩa: trên bục đọc kinh sư khiến sứ ]

Và Ngài thách các quan đối lại, vế đối khó khăn ở ba chữ cuối : Sư sử sứ,thật là oái oăm

Trạng nguyên Lương Thế Vinh vẫn ung dung ngồi uống rượu, Vua gọi đích danh quan Trạng bảo hãy đối lại, Quan điềm nhiên uống xong bảo người hầu hãy về nhà vời Phu nhân đến dìu mình về, khi Nhà Vua hỏi thì Trạng trả lời : Thưa đó là câu đối của HạThần, và chỉ vào phu nhân Quan thưa:

Đình tiền túy tửu, phụ phù phu [Trước sân say rượu, vợ dìu chồng]

Đôi Bông Tai Kim Cương

Đôi Bông Tai Kim Cương

Vũ Thị Thiên Thư

    Katherine là một chuyên viên khảo sát, giám định về kim cương và đá quí. Bà đã về hưu. Bà rất thích đi du lịch, và thường đi thăm viếng các thắng cảnh trong cũng như ngoài nước. Thời gian còn lại bà tình nguyện đi làm công tác xã hội, vào thư viện, và nhất là đến giúp đỡ trong bệnh viện.
   Hàng tuần, bà đến bệnh viện vào làm việc trong khu trẻ sơ sinh, phòng dành riêng cho trẻ con sinh thiếu tháng và bệnh tật. Công việc của bà thật đơn giản: ru trẻ. Áp dụng phương cách trị liệu mới, các bác sĩ nghiên cứu theo tâm lý học tin rằng những trẻ em được nâng niu, thương yêu thì có nhiều cơ hội chống trả bệnh tật, cũng như sớm phuc øhồi hơn trẻ khác. Bà cùng một số nhân viên thiện nguyện luân phiên nhau chăm sóc và vỗ về, ru ngủ, ôm ấp chuyện trò với những trẻ sơ sinh nầy như một người bình thường. Bà kể lại một câu chuyện trong phòng sản phụ:
– Bà đừng nghĩ rằng trẻ sơ sinh không biết sự chăm sóc thương yêu, tôi làm việc với một vị bác sĩ trong phòng sản phụ. Ông ấy chứng minh với tôi và người Mẹ của đứa bé mới vừa sinh ra. ông hỏi người sản phụ tên của hài nhi, đặt đứa trẻ vào lòng mẹ rồi nói với bà là hãy gọi tên con.          Người mẹ gọi khẻ thật êm ái, thật là kỳ diệu, đứa bé hé mắt nhìn rồi nhụi vào ngực mẹ. Ông đỡ đứa bé, bế nó trên tay rồi gọi tên thật nhẹ nhàng “Mary, Mary”. Đứa bé vẩn không buồn mở mắt. Ông bèn gọi to hơn, không có kết quả, ông thay đổi giọng nói, hét to thì đứa bé mở mắt ra nhìn rồi nhắm lại. Ông chờ một chút rồi hét to hơn nữa, thật là kỳ lạ, dức bé mở mắt ra, nhưng lần nầy thì cái miệng nhỏ kia và cái lưỡi nhỏ thè ra như chế nhạo. Ông lập lại động tác ba lần để chứng minh cho tôi và bà Mẹ của bé thấy dù chỉ mới sinh ra, Bé đã biết nghe tên gọi của chính mình và phân biệt giọng nói thương yêu hay giận dữ.
Bà tiếp tục
– Tôi chưa có cái hạnh phúc làm bà nội, nhưng tôi có thừa tình thương để san sẻ cho những trẻ em thiếu may mắn. tôi đã về hưu, thay vì dùng thời gian ngồi coi TV vô ích, tôi vào bệnh viện ngồi ru trẻ em, nhìn chúng tôi thật vui vì ít nhất tôi chưa đến nỗi thành vô dụng,tôi vẫn có thể đóng góp công sức cho xã hội nầy.
   Bà rất vui tính, lạc quan, thích chuyện trò. Biết tôi thích tìm hiểu, và nhất là cùng sở thích du lịch, bà thường kể lại những nơi đã đi qua. Bà làm việc cho hiệu kim hoàn Peacock nổi tiếng trong khu thương xá Palmer house nằm giữa trung tâm thành phố Chicago,góc đường Michigan và Wabash. Công việc của một chuyên viên đá quí như bà là thẩm định giá trị của kim cương,và các loại đá quí. Bà đã dược theo vị chủ nhân đi nhiều nơi, mua bán, trao dỗi các loại ngọc quí. Từ New York, sang Phi châu, Liên bang sô viết, Âu châu Chồng bà lúc còn sống làm nghề quản lý khách sạn, và cũng là người chuyên nghiệp chơi môn thể thao Goft. Bà đã từng theo ông đi thi đấu khắp nơi,cho đến lúc con trai bà bắt đầu vào tuổi đi học, vì nghĩ đến tương lai của con, bà quyết định ở lại Hoa Kỳ và lập nghiệp nơi đây.
   Bà chỉ có một người con trai, ông đã qua tuổi tam thập nhi lập, nhưng vẫn chưa kết hôn. Điều nầy là gánh nặng bận tâm nhất của Bà, tuy nhiên, Bà vẩn thường nói
– Ai lại không muốn con cái mình có một mái ấm, hạnh phúc, nhưng tôi không muốn con tôi phải kết hôn khi chưa tìm dược người mình thật sự yêu thương, cùng nhau chia xẻ, con trai tôi rất yêu công việc của nó, nghề cảnh sát cũng có những nguy hiểm chực chờ, nhất là giờ giấc luôn bất thường. Hắn vẩn bảo tôi -“không công bằng cho vợ hắn, người đàn bà sống với ông chồng mà ngay khi đang ngủ cũng phải cảnh giác, và đôi khi công việc quá bận, bất kể ngày đêm”.
– Nhưng bà có nghĩ rằng người đàn bà thật sự yêu thương và kết hôn với con bà, tức nhiên đã chấp nhận công việc của ông ấy, vượt qua những trở ngại nhỏ nhặt như là giờ giấc, âu lo cho sự an toàn, không thể nói là bất công được.
– Tôi cũng nghĩ như vậy, nhưng tôi tôn trọng ý muốn của con tôi, hiện thì tôi an vui trong công việc ru trẻ ở bệnh viện, và hy vọng sẽ có cái hạnh phúc ôm chính đứa cháu nội của mình trong tay, tôi chờ.
   Katherine sống trong một khu chung cư dành cho người cao niên. Con trai Bà, Rich làm việc ở Chicago, ông thường về thăm Mẹ, đưa Bà đi ăn trưa, hàng ngày, trước khi đi làm vẫn không quên gọi thăm Mẹ.
– Chỉ có hai Mẹ con, tại sao Bà và Rich không ở chung cho tiện?
– Tôi vẫn giữ căn nhà sau khi nhà tôi qua đời, mùa hè Rich về hàng tuần chăm sóc và cắt cỏ, vì công việc nên Rich ở thành phố cho tiện việc di chuyển, tôi thì không thích ở đó, cái chung cư tuy rất rộng rãi, cửa sổ nhìn ra hồ, đẹp lắm nhưng tôi cảm thấy rất tù túng, mãi tận tầng thứ mười, đi thang máy mỗi ngày phiền quá, Âý chưa kể không có bạn bè cùng tuổi, tôi ở lại nhà một mình thì Rich không an tâm, lo ngại tôi bệnh hoạn không có người săn sóc,tôi bán nhà dọn vào trong chung cư, có đầy đủ phương tiện hơn, căn nầy có hai phòng ngủ, một phòng riêng dành cho Rich, chứa đầy đủ các thứ cần dùng cá nhân, Rich về thăm có thể đến bơi lội ở hồ tắm công cộng của chung cư, đánh goft trong sân bên cạnh. Tôi có muốn đi chơi đâu đó thì đóng cửa lại không cần phải lo lắng. Hơn nữa ở đây cũng có nhiều người cùng tuổi, tôi có thể tham gia vào các buổi khiêu vũ, đánh bài, ngoài ra hàng tháng có tổ chức các cuộc du ngoạn, đi xuống phố, hay bảo tàng viện Nói chung thì có nhiều hình thức vui chơi cho mọi người. Bệnh nhẹ thì đã có xe đưa đón đi khám bệnh, nặng hơn thì có thể xin vào nhà dưỡng bệnh.
– Xin lỗi, nếu không phiền, Bà có thể cho tôi biết về giá cả của mỗi đơn vị cư trú như vậy không?
– Thật ra thì không tốn kém như mọi người nghĩ, Giống như một hình thức trợ cấp an sinh của chánh phủ, giá cả tùy theo lợi tức của mỗi cá nhân.
   Nghe bà kể lại, tôi nghĩ đến tình trạng người cao niên của chúng ta, nếu có thể thích nghi được đời sống mới và tổ chức được những khu chung cư tập thể như vậy thì sẽ giải quyết dược nhiều hoàn cảnh khó khăn. Đã có nhiều người cao niên muốn tìm về vùng ấm áp, nhưng cần nhất là tìm nơi cư trú, con cái vì công việc làm ăn, hoàn cảnh gia đình, không thể phút chốc theo cha mẹ về đây sinh sống. Nếu được tổ chức chu đáo và nhất là có người cùng tuổi tác chung quanh thì thiết nghĩ thời tuổi vàng cũng đỡ quạnh hiu, và ít nhất cũng không trở thành gánh nặng, niềm ưu tư cho con cái.

– Bà đừng phiền nhé, bà là người Mỹ gốc Việt nam phải không?
– Tại sao bà hỏi như vậy?
– Tôi nhìn họ của bà thì đoán ra, vì tôi có người khách hàng cùng họ với bà, hình như đa số người Việt Nam mang chung họ nầy.
– Bà rất tinh tế, họ của tôi không thể lầm được, nhưng tôi cũng rất phục trí nhớ dai của bà.
– Tôi không giỏi như bà nghĩ, tôi kể câu chuyên nầy cho bà nghe, câu chuyện xảy ra vẫn canh cánh trong tôi. Số là khi tôi vẫn còn làm việc với cửa hiệu kim hoàn Peacock, ngày nọ có một người khách hàng bước vào, bà ta đã lớn tuổi, nhìn hãy còn đẹp lắm, dáng người nhỏ nhắn nhưng thái độ rất kiêu kỳ, Bà đi một vòng, nhìn quanh gian hàng chưng bày các thứ trang sức bằng kim cương, quan sát rất kỷ rồi quay lại hỏi tôi
– Ở đây có nhận làm nữ trang cho khách hàng không?
– Thưa bà, chúng tôi bán và làm nữ trang theo ý khách hàng, xin mời bà vào trong để chọn các mẫu.
   Bà theo tôi vào trong, ngồi xuống ghế, mở sách ra nhìn, sau khi cân nhắc các mẫu hàng, chọn một kiểu bông tai thật đẹp, bà xin lỗi rồi thò tay vào áo lót trước ngực rút ra một túi nhỏ, trong đó có một nhẫn đính hôn bằng kim cương,nhìn sơ qua màu sắc và nước chiếu, tôi biết ngay là loại hột rất tốt, cắt khéo và giá rất cao.
– Tôi muốn đặt làm một đôi hoa tai, size hột ít nhất cũng bằng viên kim cương nầy, hay già hơn đôi chút cũng tốt, nhưng không thể kém hơn, và đây là kiểu tôi chọn, bà cho biết bao lâu thì xong?
– Thưa bà, tôi có thể gọi báo tin khi tìm được kim cương giống như bà muốn,  chúng tôi mời bà trở lại xem, nếu thấy ưng ý thì trong vòng hai tuần chúng tôi sẽ hoàn tất, bà nghĩ sao ?
– Không, bà chưa hiểu ý của tôi, tôi muốn bà tìm cho tôi một đôi hột nhân tạo tương đương với kim cương, loại hột Cubic Ziconia chứ không phải kim cương ròng, nhưng cần nhất là phải bằng size viên ngọc nầy
– Thưa bà, điều nầy không khó, chúng tôi sẽ làm theo ý bà.
   Bà từ giã tôi, để lại số điện thoại và hẹn sẽ trở lại. Thực ra thì bà không phải là người đầu tiên làm viêc nầy, chúng tôi quen với nhiều khách hàng, họ thường làm một đôi giống như song sinh với món nữ trang đắt giá vì nhiều lý do, bảo hiểm, an toàn. Viên kim cương bà mang đến trị giá ít nhất cũng gần mười ngàn đồng, còn viên ngọc Cubic Ziconia mà tôi tìm thì trị giá chỉ vài trăm bạc. Tôi buôn bán thì phải chiều ý khách hàng. Sau khi tôi gọi báo tin, bà trở lại, lần nầy cùng đi với một thanh niên. Tôi đoán anh ta là con trai của bà, hai người vào ngắm nghía và đồng ý là viên Cubic Ziconia nhìn rất tương xứng, trả tiền, hẹn sẽ trở lại khi đôi hoa tai hoàn tất.
   Hai tuần sau, lần nầy thì bà trở lại với một người đàn ông và một cô gái trẻ, cô nhìn chưa quá hai mươi, đẹp như búp bê, tóc dài đen nhánh, da trắng hồng hào, mặt thật thanh tú, cô nói tiếng Anh rất lưu loát nhưng có vẻ e thẹn. Tôi mời tất cả vào trong, bà giới thiệu cô là hôn thê của anh con trai, đôi hoa tai là quà đi cưới. Ông cụ là bố của cô gái, họ đến để xem trước món trang sức của cô dâu.
– Thưa bà, theo phong tục của chúng tôi, khi nhà trai đến cưới thì phải mang nữ trang, tiền bạc, lễ vật dến để đón dâu, tùy theo gia đình, nhà gái có quyền đòi hỏi, và nhà trai phải cung ứng cho đầy đủ.
   – Tôi cũng đoán như vậy, nhìn vào cung cách của người cha. Cô con gái nhỏ nhoi đó thật ra đã học xong đại học, bà có biết là cô vừa tốt nghiệp y khoa của đại học Northwestern không? Vừa xinh đẹp, vừa thông minh. Nhưng anh hôn phu thì thật là không xứng đáng chút nào, vừa xấu, vừa thô kệch, anh còn có vẻ quá nhu nhược, mọi việc đều do bà mẹ và ông bố quyết định. Tôi thật không hiểu cuộc hôn nhân nầy cho đôi trẻ nên duyên hay chỉ là cuộc đổi chác của người lớn hai bên vậy?
– Bà nhận xét rất đúng, tôi cũng công nhận là trông như một cuộc mua bán, bà ta mua cái danh bác sĩ của cô ấy, còn ông bố thì ham tiền mà bán rẻ duyên con.
– Tôi cũng nghĩ như thế, vì bà ấy kể lại cho tôi nghe trước đây khi bà di cư từ Hà Nội vào Sài Gòn, bà mang theo rất nhiều vàng bạc, viên kim cương nọ chỉ là một trong những viên bà mang theo sang đây thôi. Tôi hy vọng bà nói thật, nhưng tại sao lại đi lừa dối một cô gái ngây thơ như vậy? Tôi không nghĩ rằng ở cái xứ tự do tân tiến nầy,vẫn còn những cuộc hôn nhân mua bán. Mà lại manh tâm lường gạt bằng kim cương giả hiệu như vậy.
– Tôi thật không thể giải thích với bà, có những tập tục nên bỏ đi,cũng như những gì đẹp đẽ cần giữ lại. Tôi rất may mắn không gặp trường hợp nầy. Hôn nhân rất quan trọng. Tôi chỉ ngại là chưa kịp kết hôn đã manh tâm lừa dối, như vậy thì làm sao có cuộc sống hạnh phúc lâu dài được.
– Tôi không thể nói với cô gái đó sự thật, không thể xen vào chuyện cá nhân của gia đình khác, tôi chỉ là người bán hàng, tôi làm theo lời người đến mua, chỉ cầu mong sao ông bố nọ nếu thận trọng thì nên mang đôi hoa tai đó đi giám định, dù rằng để làm bảo hiểm thôi, có như vậy mới có thể biết được âm mưu lừa đảo của bà ta. Nếu ông ta có từ hôn thì thật đáng đời bà ấy. Cô gái kia cũng thoát khỏi tay bà mẹ chồng xảo quyệt. Câu chuyện nầy cứ làm tôi băn khoăn hoài.

Câu chuyện kể lại của bà làm cho tôi nhớ lại câu ca dao Ngoại hay hát ru ngày còn thơ
“Một mai thiếp có xa chàng
Đôi bông thiếp trả, đôi vàng thiếp xin”
  Đôi hoa tai là duyên con gái, Ngoại giải thích, dù gia đình có nghèo thế nào khi đi hỏi cưới cũng ráng mua một đôi cho con dâu, đến khi xa nhau trả lại cho chàng vì trả mối duyên không tròn vẹn, còn đôi vàng xin giữ lại để chút nghĩa còn vương.
   Tôi không quen biết cô gái nọ, chưa gặp nhau bao giờ, nhưng nghĩ đến thân phận của mỗi con người, cái giá trị chân thật không thoát được cái hào nhoáng bên ngoài làm ngao ngán.
   Bà Katherine là một người từng trải, bao dung, bà từng đi nhiều nơi, am hiểu nhiều phong tục tập quán, không đánh giá cả một dân tộc qua biểu tượng một cá nhân. Tôi không thể giải thích hết những thói quen, tập tục lỗi thời, càng không thể kể chuyện xấu của mình cho người ngoài, vì chính tôi cũng không ngờ vấn đề “Môn đăng, hộ đối” hãy còn theo sang tận bờ bến tự do nầy.
   Câu chuyện kể lại của bà Kahterine làm tôi rất băn khoăn, mẹ chồng và nàng dâu,  từ xưa vẫn mãi là mối dây oan trái, muốn ăn trái ngọt thì phải trồng giống tốt, gieo nhân nào hưởng quả nấy, bà ta muốn tìm người chia xẻ cuộc sống với con mình, muốn cưới một cô dâu ngoan sao lại nhẫn tâm lừa dối, bà đã bỏ gia tài sự sản chạy từ Bắc vào Nam, một lần nữa sang tới đất Mỹ, lại không nghĩ đến sự may mắn hơn nhiều người, được cái hạnh phúc bảo toàn sinh mạng, được làm lại cuộc sống mới, tại sao không biết dùng tình thương chia xẻ nhau để sống nốt khoảng đời còn lại trong an vui hạnh phúc?

Vũ Thị Thiên Thư

 

Lưỡng Long Tranh Châu

 

Lưỡng Long Tranh Châu

 

Làn hương Nguyệt Quế toả nhẹ nhàng, gió bấc thổi miên man, bàn tay gầy guộc nâng chén trà lên môi, màu hổ phách long lanh soi đôi mắt trầm tư . Muà trăng cuối cùng cuả năm, cánh đồng lúa mùa lác đác ngã màu vàng mơ, ngọn trĩu bông, Lão Sư trầm ngâm nhìn đạo trường, nếp trán nhăn như hằn sâu thêm. Trong khoảng sân trước nhà, màu đất đen bóng ngời. Các môn sinh vừa xong thao tác cuối cùng, cuộn manh vải nâu tượng trưng cho thân mình, xếp ngay ngắn, cho vào trong lòng chiếc đầu Lân, tất cả các động tác nhanh nhẹn , nhịp nhàng, nhuần nhuyễn đó không đủ mang lại nụ cười,hay tan nếp trán nhăn. Lão Sư nhìn sang Tiếu Phong, ân cần hỏi

– Chân con đã thế nào rồi?

– Thưa thầy đã khá hơn, con hy vọng chỉ một vài hôm nữa sẽ bình phục hẳn

– Vào bảo Thư Cưu lấy cho con chai thuốc rượu, nhớ phải xoa bóp hàng ngày

– Dạ ,

Nhìn theo dáng đi khấp khểnh cuả đứa học trò yêu, cố nén lại tiếng thở dài. Bao nhiêu năm nay, những đưá con ngoan, những tên học trò ưu tú đã rời mái trường thân yêu, như chim bằng soãi cánh, trời đất bao la.Thới Long vắng tiếng vào ra thưa trình. tiếng nhộn nhịp thanhniên đầy sức sống .Tiểu Phong là đứa học trò ngoan, nhưng thể chất vốn yếu ớt, dù có cố gằng thế nào thì cũng khó mà gồng gánh trọng trách, mình đã tuổi cao rồi, chuyện về núi chỉ là nay mai, danh tiếng bao nhiêu năm, Võ Đường nầy không thể mai một. Lão Sư nhấp ngụm trà, mắt vẫn đăm chiêu.

 

– Tiểu Phong, Thầy bảo mang cho sư huynh chai thuốc rựợu nầy.

– Thư Cưu, cảm ơn tiểu muội.

– Lại khách sáo, Thầy đã bảo, huynh cần thuốc, nhớ dùng hàng ngày, cẩn thận nha Sư huynh, Thầy lo âu quá.

– Huynh biết. Huynh mang về đây .

Nhìn theo Tiểu Phong, biết nổi âu lo của thầy không phải là vô căn cứ. Từ mấy hôm nay, ngày nào cũng đến tập, nhưng chỉ với một chân thôi thì không thể nào đủ lực để trèo lên, huống gì phải phi thân, bám vào trụ cột. Năm nay bên Phú Long đã chuẩn bị ráo riết từ sau Hạ Nguyên, quyết định tranh giành chiến thắng, lên ngôi vị độc tôn. Nghe tin báo là Phú long đã chuẩn bị xong xuôi rồi, họ đã điểm nhãn từ lâu. Nhớ lại, Thư Cưu tạt vào nhà ngang, khung cửa khép hờ, nhặt nồi hồ chỉ còn lại mấy mảnh khô cứng dính trên miệng, nhìn những nan tre mỏng, cùng giấy bồi, dây kẽm, chiếc đầu Lân chỉ mới khởi đầu, còn là bộ xương và lớp giấy bồi dính chặt, Chú Tám thợ mã năm nay mắt đã kém, mang thêm chứng bệnh thấp khớp, mùa gió bấc thường đau yếu luôn luôn. Còn có nửa tuần trăng thôi, đến ngày điểm nhãn, và Tết càng thêm cận kề, ước gì mình có thể giúp được.

 

Thới Long võ đường, từ những ngày thanh niên, khi lau sậy còn tràn lan, ruộng đồng bát ngát, bao bọc vùng đầm lầy, bưng biền đầy cá tôm …Phụ thân nhận trọng trách dẫn dắt môn sinh, trong làng nầy chuyện cướp bóc không bao giờ sảy ra, các đảng cướp chỉ ăn hàng chunh quanh các làng mạc khác. Thới Long là cấm địa từ những ngày bà Kế tay không, một mình, bắt tên đầu đảng, trói dễ như trói gà.

– Cô Hai , khuấy hồ chi sớm vậy ?

– Không sớm đâu con , còn có bao nhiêu ngày nữa thôi.

Đôi cánh tay nhẹ nhàng khuấy từng vòng, ngọn lửa hồng đùa theo làn gió lòn qua liếp tre, Căn bếp ấm áp, tiếng lách tách cuả thanh củi cháy đều. Bột trong nồi từ từ đặc sánh lại, nặng dần theo tay khuấy, công việc nhẹ nhàng nầy không như những giờ tập hàng ngày, khi trong sân chỉ còn lại hai cha con, dù không được học cùng các môn sinh, nhưng vẫn không kém phần nghiêm ngặt. Từ nhỏ theo nhìn trộm, cho đến lúc trưởng tràng bắt gặp và trình với phụ thân, biết ý con cương quyết, người cuối cùng cũng thân hành dạy riêng, Thư Cưu viện cớ “ Bà Kế chẳng phải là người từng tay không đánh cướp đó sao ? Võ nghệ cuả bà trong nhà ai mà không biết.” Đúng vậy, Bà Kế là người phụ nữ nổi danh một thời, ngoài chuyện chăm lo cho tá điền, tính toán trong ngoài, còn rất giỏi võ nghệ, nhìn bà rất mỏng manh, diụ dàng, nhưng lâm trận rôi mới biết sức dẽo dai, nhanh nhẹn. Bà là tấm gương treo trước mắt những người phụ nữ sinh ra trong dòng họ Võ. Càng làm cho Thư Cưu thêm quyết tâm hoc hỏi, luyện tập không ngừng

Gương mặt Thư Cưu ướm hồng, đôi mắt long lanh phản chiếu ánh lửa. Nhớ lại nổi lo âu cuả phụ thân, ngày hẹn đấu đầu năm kề cận, tình trạng thương tích cuả Tiểu Phong, tất cả đè nặng, âu lo. Đặt nồi hồ lên cái rế bằng tre đan, trên phản xếp ngay ngắn các mảnh giấy bồi, thanh tre chuốc mỏng, sợi kẽm, màu sơn…Tất cả đã được chuẩn bị trân trọng, chờ ngày hoàn tất. Từ lâu, võ đường vắng tiềng trống thôi thúc, tiềng phèn la sinh động, tiếng gỏ khởi đầu bên thành gỗ trầm lắng, tiếng đồng thau chát chuá kêu, tiếng ngạo nghễ reo hò, khí hào hùng chất ngất cuả tuổi thanh niên.

Cơn gió bấc sắt se, sau muà nước rút, khi những khúc tre già được móc lên từ con lạch nhỏ, những thanh tre được cắt xẻ, chuốc mỏng, đợi chờ bàn tay khéo léo cuả Chú Tám. Những ngày cắm cúi làm việc, cẩn trọng trau chuốc, khi mảnh hồ cuối cùng đắp lên , chiếc đầu Lân nằm ngạo nghễ trên bộ phản lớn ở nhà ngang. Phụ thân đã chọn được ngày tròn Trăng, tháng cuối cùng cuả năm, sẽ là ngày điểm nhãn. Mạch sống khơi dậy, sinh khí ngất trời, ước mơ nhìn thấy mảnh khăn đỏ cột vào chiếc độc sừng phất phới đủ làm cho máu nóng luân lưu .

 

Lão Sư phủ phục trước hương án, đôi nến đỏ ngọn toả ánh sáng ngời, khói hương bay tản mạn. Đã mấy hôm nay, trường chay, tịnh mặc, quì trước khung cảnh trang trọng, khi chiếc khăn nâu giở lên, bày nguyên hình đầu Lân màu sắc rực rỡ, thân thêu đuôi nheo ngũ sắc, hàm râu trắng bạc phơ Lão Sư trang trọng bái lạy rồi tránh sang một bên, nhường lại cho Chú Tám, người không còn mặc bộ aó bà ba nâu thường ngày, chiếc áo the in bông chữ thọ, đấu chít khăn chữ nhân, Chú lặng lẽ bước vào giữa, hai tay nâng chiếc mâm gỗ chứa đôi mắt, chú đặt lên bàn, quì lạy xong, thư thả, cẩn thận lắp đôi mắt vào hai khung còn để trống trên đầu lân, vuốt lại nét ngài, dò xem trên dưới cho hoàn hảo. Kỳ diệu thay, như được luồng sinh khí thổi vào, chiếc đầu Lân thật sống động mở đôi mắt lấp lánh, sáng ngời, biểu tượng của sức mạnh vạn năng, đôi mày râu bạc trắng, như tuổi thọ vô biên.

Hai hàng môn sinh tuần tự tiếng vào, Tiếu Phong dẫn đầu, nghi thức lễ bái lập lại. Chiêng trống khởi điểm, chỉnh trang y phục, trang trọng hai tay nâng đầu Lân lên, Tiểu Phong kề vai vào gánh danh dự cuả võ đường. Những bước chân nhẹ nhàng, tiến thoái theo từng phương vị, cuốn thân hình, vùng vẫy, từng nếp vải ngũ sắc tung bay. Thới Long, không an bình như tên gọi, mà biến thành mãnh long đang thức giấc, vươn vai, kiêu hùng, thân hình uốn khúc, đầu ngẩng cao, tung mây, lướt gió .

Thư Cưu cố nén lại nhịp tim đập rộn ràng, hương khói từ đạo tràng toả ngát, niềm vui trong lòng không dằn đươợc nổi âu lo. Nhìn bước chân Tiểu Phong, biết chưa thể dùng toàn lực được. Nhớ lại cây cột tranh tài trồng cao chót vót, gỗ bóng như thoa dầu, bình thường đã khó, huống gì chỉ còn một nửa sức lực cuả đôi chân. Thật là nan giải, cảm nhận được nổi lo lắng cuả phụ thân, Thư Cưu thở dài.

 

Tháng giêng, ngày đầu năm, những chiếc phướn đủ màu phất phơ trong gió sớm. Khu đất trống thường ngày làm sân túc cầu cho bọn trẻ con trong làng, chúng không có cơ hội dùng sân banh chính, vì hai đội banh thường xuyên luyện tập ở đấy. Chiều chiều, chúng mang banh ra sân, cũng chia ra hai đội, hăng say vờn đuổi, chụp bắt, đội đầu như những hàng chú bác. Trong khoảng sân hôm nay, trống chiêng đổ dồn dập, dân chúng cuả hai làng lân cận đã tề tựu chờ trận phục hồi danh dự cuả hai võ đường danh tiếng bấy lâu. Thới Long tên làng trên và Phú Long là tên làng dưới. Cả hai Võ đường khi xưa cùng chung một thầy, từ lúc hai làng phân ranh chia đất, tranh giành ảnh hưởng đưa đến huynh đệ tương tranh, ngõ hầu độc tôn hoán vị. Hiềm khích sinh ra chỉ vì tranh nhau chữ danh, thay vì huynh đệ nâng đỡ nhau, lại biến thành gà nhà bôi mặt, nghĩ cũng buồn thay.

Võ đường Thới Long, với chiếc đầu lân mày râu bạc phơ tiến vào trong sân, bên kia Phú Long cũng rộn ràng, mày râu đen nhánh ngạo nghễ, sẳn sàng lâm trận. Chào nhau tam bái theo tinh thần thượng võ, chưa kịp an định bộ vị, cả hai như mãnh long vùng dậy, màu ngũ sắc tung bay, từng bước chân vững chãi. Phú Long như sức thác đổ, dòng cuồng lưu, Thới Long điềm mặc, nhẹ nhàng như suối, miên man bất tận. Tiếng phèn la hoà theo nhịp trống thúc bách. Mọi người căng mắt hồi hộp chờ, biết là trận đấu phục hồi danh dự, sẽ vô cùng ngoạn mục, cả hai đều vì danh dự cuả mình mà tận lực thi thố tài năng. Từ bao lâu nay, Thới Long vẫn là người đàn anh nhũn nhặn, khiêm tốn, Lão Sư vốn là người hiếu hoà, không chấp nhất, nhưng mối tị hiềm cuả Phú Long không sao phân giải bằng lời nói, từ lúc nhận trọng trách, cáng đáng môn sinh, Lão Sư luôn tìm cách giải hoà hợp nhất, bước sang năm nầy, sức đã mòn lực kiệt , không biết sẽ còn cố gắng được bao lâu . Phú Long luôn chực chờ ngôi vị đôc tôn, bấy lâu vẫn gắng công luyện tập, từ năm trước đã bắn tiếng là sẽ không nhường giải vô địch năm nầy. Nhất là sau khi biết được Tiểu Phong thương tích khó phục hồi đúng vào ngày khai đấu. Nắm chắc phần thắng, càng kiêu căng thách đố, mục thị vô nhân.

Bên trong sân cỏ, cuộc khoe tài ráo riết, buị mù bay theo những bước chân. Không gian chợt lắng xuống, tiếng trống thúc giục, tiếng phèn la dồn dập nhường lại cho thanh âm nhẹ nhàng hơn, chuẩn bị cho hồi tranh hùng gay cấn, chiếc đầu lân cuộn tròn lại theo tư thể ngủ, hoành thân, đuôi ngũ sắc giấu vào theo thân hình, hai bóng người gọn gàng lướt ra, thay thế bằng đôi thứ nhì, chính là thành phần chủ động cùng lúc với tiếng trống báo thức chuyển sang dồn dập. Mọi ánh mắt đổ dồn vào, nao nức chờ, ức đoán, bàn cãi, không ai muốn mất phần, cô gắng ngẩng cổ lên, diện kiến trận giao tranh đang hồi gay cấn. Hai chiếc đầu Lân chổi dậy, đây chính là lần quyết đoán, chiêc cột sừng sửng trồng ở đầu sân, hai chàng mãnh Lân đang vờn qua, uốn khúc, nhanh nhẹn. phô trương nhan sắc, tài năng, cùng sức lực, xum xoe đuỗi theo nhau, trêu ghẹo nhau. Lão Sư buông hơi thở ra, nhìn bước chân nhẹ nhàng, linh hoạt, thầm nghĩ Tiểu Phong đã hồi phục, tạ ân Tổ Sư phù hộ, gánh nặng như trút xuống, nhịp tim không còn thắt nghẹn, giữ được cán cân cho bằng, cộng với khinh thân, ước lượng đúng khoảng cách, tất cả phối hợp vững chắc thì không phải lo lắng chuyện danh tiếng bấy lâu. Chăm chú nhìn bộ vị tiến thối, nhanh nhẹn, nhịp nhàng, cả hai bên đồng sức, chiếc cột cao vút trơn bóng, mảnh khăn đỏ phất phơ trên đầu cột, biếu tượng chiến thắng cuối cùng .

Phú Long vờn qua, ánh mắt lạnh ngắt ẩn sau cái miệng Lân mở to, nhìn thẳng vào đối phương, thách thức, thân hình cường tráng, bộ võ phục không che được đôi chân rắn rõi cuả người chuyên cần luyện tập, đôi cánh tay nhẹ nhàng nâng chiếc đầu lân, hàm râu đen nhánh kiêu hảnh. Thới Long nhẹ nhàng, chớp đôi mắt, hàm râu bạc phất phới, điềm đạm trước sự thách thức, nửa mặt che lại sau mảnh khăn, quấn chặt cả đầu, chỉ lộ ra đôi mắt sáng long lanh, đôi mày cong vút nhưng không kém phần kiên quyết. Thân hình mảnh khảnh, bước chân nhẹ nhàng, Lão Sư nhíu đôi mày, hình dáng nhỏ nhắn quen thuộc nầy, không thể lầm lẫn được, chiếc quạt trên tay xếp vào, mở ra, dấu hiệu chỉ có người thân cận biết trong lòng người như tơ rối.

Trận quyết chiến, hai chiếc đầu cất cao, ánh nắng chiếu vào màu cột gỗ bóng ngời. Phú Long bước từng bước chắc chắn, Thới Long lướt nhẹ nhàng, cả hai tiến gần nhau từng tất sân, từng phân cột cao, tiếng trống thúc giục, cả hai vờn nhau, chực chờ, mảnh khăn đỏ thoáng gần, thoáng xa, theo nhịp tim đập rộn ràng cuả người dự kiến. Tiếng trống báo hiệu vang, trên đỉnh cột gỗ, nhanh như chóp mắt, hai chiếc bóng cùng phi thân, thủ trảo gương cùng lúc, Phú Long một nửa, Thới long một nửa, mảnh khăn đỏ hai đầu chia nhau giằng co, ánh mắt lạnh quét nhanh vào đôi mày liễu cau, bất chợi, mùi hương Nguyệt Quế, không thể nào …?? Đôi mày cong vút kia, ánh mắt khiêm cung hàng ngày, Phú Long thả tay ra. Tiếng trống thôi thúc giục, tiếng phen la cũng nhẹ nhàng Thới Long lã lướt xuống sân, mảnh khăn đỏ phất phới, danh dự cuả Võ Đường Thới Long bảo toàn, khiêm cung hướng về Phú Long, cúi mình tam bái …

 

Tiểu Phong sờ tay lên đầu, tưởng chừng như trăm ngàn nhát buá bổ, bóp hai vầng thái dương, nhắm lại đôi mắt, cố chặn đuổi ánh nắng chói chang, tiếng trống vổ theo từng nhịp tim, đau buốt… tất cả như khúc phim quay chậm, chống tay ngồi lên, nhìn bộ võ phục xếp ngay ngắn trên ghế, bên trên cành Nguyệt Quế còn thơm ngát hương. Trận đấu, ngày hôm nay, từ xa vọng về tiếng trống thôi thúc. Tiểu Phong nhướng đôi mắt, Trống thắng trận ?? Ta có mơ không ?? Chập chờn, từ xa chiếc bóng đen nhẹ nhàng len vào, bóng tối đỗ ập xuống đầu . Nhớ lại giọng nói diụ dàng

– Tiểu Phong, tha thứ cho tiểu muội …

Hương Nguyệt Quế nhẹ nhàng hoà theo men chiến thắng ngày đầu năm . Tiếu Phong ôm đầu ..Thư Cưu ..!!

 

Vũ Thị Thiên Thư

 

Đi trong lòng quê hương mới

Đi trong lòng quê hương mới

Ba tôi, người truyền cho tôi dòng máu mê thiên nhiên, lang thang khắp chốn …
*
Những năm đầu trung học, khi chương trình học của các lớp đệ thất Ban Anh Văn bắt đầu bằng English For Today quyển 1, sau đó là đệ lục quyển 2, tôi nhớ không lầm thì quyển 3 học về bảy kỳ quan thế giới, trong đó có Old faithful Grand Canyon,Tah Mahal, Luxamburg Garden, Pyramid, Golden Gate Bridge, Niaraga Fall và Mammoth Cave.
Mamnoth Cave. Một trong các kỳ quan thế giới, như bài học thuở nào, những năm ước mơ vác ba lô theo đoàn, đi cho thấy hết bao nhiêu chặng đường quê hương yêu dấu.

Tháng chín, những ngày hè sắp qua, mùa Lễ Lao Động, dịp nghỉ lễ cuối cùng cho mùa hè, chờ một năm học mới bắt đầu. Lang thang theo nhau về miền Blue Grass [Kentucky]. Buổi sáng sương đẫm trên ngọn cây, mặt trời còn ngủ nán, chút xôn xao, chất vội hành trang, lần lượt cho vào phía sau chiếc xe. Giờ khởi hành, đóng lại cửa, cột dây an toàn, nhìn lại căn nhà nằm im lìm trong ánh sáng mờ nhạt…
Những ngọn đồi thấp cỏ xanh muợt mà nối tiếp, con đường thẳng tắp và đoàn xe vội vã tranh nhau, nuốt từng khoảng cách, cuốn từng cơn gió bụi theo sau. Con đường nầy bao nhiêu lần qua đi, những lần tha bầy con dại lang thang theo I-65 xuôi Nam. Khoảng cách ước lượng hơn ba trăm năm mươi dặm dài, mất khoảng sáu tiếng lái xe mới có thể đến nơi.Vượt qua thủ phủ của Indiana, sang thành phố Louisville, nổi tiếng với đội base ball Cardinal từng là vô địch.
Đến Cave City lúc trưa, vào khách sạn giữ phòng, sắp xếp hành trang, đi thăm một vòng, mang thực phẩm ra ăn uống qua loa rồi lại tiếp tục hành trình về phía Mammoth cave, cách đó mười hai dặm. Đọc nhanh và quyết định chọn các chuyến đi có hướng dẫn, chuẩn bị vào thăm.
Thời gian dành ra để hoàn tất chương trình đi thăm thạch động khổng lồ nầy, gồm có trong hai hôm, chúng tôi chọn ra ba chuyến đi vào trong hang động, và chọn thêm chuyến tàu dọc theo dòng sông Green River, con sông nhỏ bốn mùa, nước sông luôn màu xanh lá biếc, bao quanh vùng đồi chập chùng ngõ ngách thâm sâu. Cho đến bây giờ, vẫn chưa hoàn tất công cuộc đo đạc, cũng như thống kê hết những hang sâu của vùng đất đầy hang động bí hiểm nầy.

1 The Frozen Niagara Fall

Từ trạm hướng dẫn, dùng xe bus đến cửa hang. Nằm khuất sau ngọn đồi xanh mượt, hiện ra khung cửa nhỏ, màu sơn xám, thật bình thường. Bên cạnh sườn đồi, tiếng chim hót thanh thanh hoà tiếng ve sầu thê thiết, vạn vật đồng trổi khúc nhạc triền miên bất tận, nắng xuyên qua kẻ lá, người hướng dẫn đứng lên tảng đá cao, gọi mọi người trong đoàn quay quần lại, xếp thành hình bán nguyệt trước mặt, một lần nữa anh nhắc nhở mọi người, vì sự an toàn, những tai nạn có thể sảy ra, nhất là phương tiện cấp cứu khó khăn, xin mọi người tự kiểm điểm khả năng cũng như tình trạnh sức khoẻ của mình, không nên cố gắng tiếp tục cuộc hành trình nếu trong người mang những bệnh khó thở, áp xuất huyết cao, tim đập không đều, chóng mặt khi lên cao, sợ bóng tối… Nói chung là nếu cảm thấy bất an thì nên huỷ bỏ chuyến đi trước khi vào sâu trong hang, khi có chuyện sảy ra thì có hối hận cũng muộn rồi.
Khung cửa vừa khép lại, đoàn người nối đuôi nhau đi, ánh sáng của những ngọn đèn mờ mờ chỉ vừa đủ soi con đường gập ghềnh. Người hướng dẫn đi trước, quanh co theo khe đá, qua một đoạn thang, xuống càng sâu càng nở rộng, bên trong vách đá mồ hôi nhơm nhớp, khí lạnh buốt xuyên qua lần áo khoát, nhiệt độ trong hang sâu, quanh năm không thay đổi, lạnh không hơn 60F, dù bên ngoài mùa hạ đang nóng 90F, hay đông lạnh dưới 30F. Khi người hướng dẫn dừng lại, dùng đèn pin chiếu lên chung quanh vách, ánh sáng cắt qua một khoảng không gian sâu hun hút, những tia mắt theo vết sang nhìn quanh, những khuôn mặt ngạc nhiên. bàng hoàng …không thể hình dung …
Căn phòng rộng rãi, trần cao thăm thẳm, khuôn viên rộng hơn nửa mẫu đất, vách đá trơn, dấu tích còn đọng lại của nước soi mòn vào đá vôi là những tảng đá chất chồng lên nhau thành những hình thể kỳ dị, càng về trong phía sâu đường hầm nở rộng ra, hai bên chập chùng đá tảng. Đoàn người đi âm thầm, chút ánh sáng chỉ làm tăng thêm hình ảnh diệu kỳ của thiên nhiên. Một đoạn, người hướng dẫn viên dừng lại, chờ cho mọi người theo cùng, tập họp lại, giọng chậm rãi, cô kể lại lịch sử trăm năm trước đây, khi những người khai phá đầu tiên tiến vào trong lòng động đá, soi sáng bằng những dụng cụ thô sơ, với ngọn đuốc nhỏ như đom đóm, như que diêm, cho đến những ngọn đèn dầu khí, và cuối cùng là ngọn đèn pin hiện nay. Những khám phá, thống kê, đo đạc, ghi lại chiều dài của thạch động, hằng năm, liên tục, tất cả do sức người, không dùng dụng cụ tân tiến, phương tiện máy móc …, con số có khi chỉ vài dặm, cũng đã khó khăn rồi, và thật sự cho đến bây giờ, vẫn chưa có chuyên viên dùng các dụng cụ máy móc hiện đại, để đo đạc, tính toán chiều dài bất tận của hang sâu.
Cao điểm cho chuyến đi nầy, sau 500 bậc thang lên xuống, là bức tranh kỳ diệu bằng thạch nhủ , giống như dòng thác khổng lồ Niagara, đông đặc lại trước mắt, ánh sáng của ngọn đèn phản chiếu vào màu đá tảng lạ lùng … Xanh biếc ngọc thạch, vàng cam nắng chiều, nâu hồng của phù sa thân yêu. Từ trên cao, thạch nhủ như dòng nước từ thác ngàn chảy xuống, đông đặc lại tự nghìn năm xưa, màu sắc óng ánh dưới ngọn đèn vàng …
Chúng tôi lặng lẽ nhìn chunh quanh, những đôi mắt như dán vào khung cảnh kỳ diệu. Có trèo năm trăm bậc thang lên xuống thì cũng đáng công khó nhọc vô cùng.

2 Historic tour

Con đường dẫn xuống lòng hang rộng rãi, những bậc thang được đóng bằng gỗ, có thể dùng xe lăn cho người tàn tật. Quanh co một đoạn thì vào một căn phòng to, ánh đèn low voltagne** dọc theo vách đá vừa đủ soi sáng, chập chờn in hình những chiếc bóng người khẳng khiu. Dừng lạ, hàng băng gỗ xếp thành hình vòng cung trước mặt, người hướng dẫn chờ mọi người an vị chung quanh rồi giải thích : đây là Historic Entrance, lối vào hang đã được tái khám phá từ những năm 1790s, khi người di dân từ Châu Âu mới sang định cư nơi vùng đất đồi xanh mượt. Tình cờ lạc vào hang sâu, khám phá ra saltpeter [ chất lưu huỳnh, diêm tiêu ], dùng để chế thuốc súng. Vào những năm chiến tranh 1812, vì nhu cầu đạn dược lúc bấy giờ, các nhà kinh doanh, các chủ nhân mang nô lệ vào khai thác vùng mỏ thiên nhiên nầy, dọc theo con đường dẫn vào hang động, di tích còn lại là những ống gỗ dẩn nước, chạy theo hai bên vách đường hầm vào tận trong hang sâu. Con đường chính và căn phòng rộng nửa mẫu nầy nằm 140 feets sâu trong lòng đất.
Chúng tôi theo người hướng dẫn tiến vào trong độc đạo, càng xuống sâu, bóng tối càng bao phủ, những điểm dừng chân kế tiếp nhau là:

Methodist Chuch trong lòng đất : Nằm bên trong đường hầm chính, là căn phòng rộng, trước mắt một tảng đá cao, trên trần thấp còn dấu màu xám đen, trước đây, hãy hình dung những ngọn nến chập chờn, ngài Mục Sư giảng rao lời Thiên Chúa, chunh quanh là những tín đồ ngoan ngoãn, bên ngoài là không khí ngột ngạt của ngày hè nóng bức … A! Căn phòng như có máy điều hoà thiên nhiên riêng dành cho những người con ngoan của Chúa.

Indian Artifact: Rời khỏi nhà thờ, vượt qua Gothic Avenue, đường hầm thoai thoải, vách đá chập chùng, chúng tôi dừng lại, nhìn quanh dấu vết của người Indian đã đến nơi đây là những dụng cụ thô sơ, dùng để cạo lấy chất diêm sinh từ trong vách đá, trên tảng đá cao sát trần, những chiếc giày cỏ thô sơ,cùng chiếc túi da chứa phẩm vật, thức ăn, nước uống …

Giant’s Coffin: Căn phòng dài kế tiếp, chia ra làm hai ngã, phía bên phải nhìn lên vách, là một tảng đá lớn nằm ngang, dưới chân là những màu sắc hoa văn, đá xám lẫn lộn với vàng cam, giống như tác phẩm của bàn tay người thợ môc khéo léo chạm trổ, nhìn nguyên hình dáng, tảng đá giống như chiếc hòm khổng lồ, là tên gọi của cả căn phòng. Phía bên trái là một đường hầm khác, sâu hun hút, bóng tối như đêm ba mươi, phía bên nầy, thông xuống dưới là con đường nhỏ dẫn vào một lòng hang sâu, chỉ thấy bóng người dần khuất theo ánh đèn sáng chập chờn.

Sidesaddle Pit: sau khi vượt qua Giant’ts coffin, và con dường nhỏ dẫn xuống, chỉ có thể đi từng người một, dừng lại một chút ở Wooden Bowl room đủ cho mọi người nhìn quanh bàng hoàng, trong lòng hang thăm thẳm nầy, nơi quanh năm ánh mặt trời không thăm viếng, tịch mịch như nghe cả tiếng đập trái tim, trong lồng ngực của chính mình, tiếng thở của người bạn đồng hành âm thanh như chìm lắng. Người hướng dẫn cất tiếng gọi mọi người quay quần, hãy nắm lấy người thân, vì khi ánh sáng vụt tắt, sẽ không còn nhìn thấy ngay cả bàn tay của chính mình. Bóng tối, dù chỉ trong một giây phút, dường như bao phủ, ngộp ngạt choáng váng cả người. Khi ánh diêm loé sáng, ngọn lửa nhỏ mong manh, tưởng chừng như ánh dương rực rỡ sau bóng đêm. Nhìn lại bóng người chunh quanh, những ánh mắt sáng long lanh, như thấu nghiệm lẽ huyền diệu của tạo hoá, và con người bỗng nhỏ nhoi, như hạt cát, như giọt sương …

Bottomless Pit: vách đá chỉ vừa đủ một người lách qua, dưới chân là hang sâu không thấy đáy, ánh sáng ngọn đèn bão mập mờ, trong bóng tối ần hiện những hình thù đá tảng, dựng lên nhau như thách đố thời gian.

Fat man’s Missery: con đường nhỏ từng người qua trước đây, trở thành con đường mòn dạo mát, đúng như tên gọi, người mập thật là khốn khổ, có vào con đường nầy mới thấy sức mạnh của dòng sông nước ngầm, cấu tạo của cả vùng hang động chằng chịt như trận đồ, biến hoá kỳ diệu, con đường hẹp, chỉ có thể nghiêng tấm thân trăm cân Anh của người nhỏ con để lòn lách chui qua. Ngoằn nghèo như ruột gà, quanh quẩn tưởng chừng không lối thoát, ngỡ là đã qua, thì lại nhìn vào khung trần thấp, chỉ có cách khom người, một nửa chui, một nửa lần, để tiếp tục lòn lách vượt qua, nếu không muốn vĩnh viễn ở lại đây làm bạn cùng đá tảng.

Great Relief Hall: tầng thứ ba trong lòng hang, 280 feet dưới lòng đất, nơi dừng chân sau đoạn đường chiến binh vừa qua, là phần thưởng tuyệt vời, không vượt giao thông hào, không phải bò hoả lực, không thể hình dung được, những ngạc nhiên tiếp nối, sau mỗi đoạn, tưởng đã đến điểm cuối, nhưng không ngờ lại còn những đợi chờ khác diệu kỳ trải ra trước mắt.
Nghỉ chân cho mọi người lấy lại hơi thở bình thường, người hướng đạo kể về những sinh vật sống trong lòng hang. Dơi là loài sống về đêm, có thể sinh sống trong hang bên cạnh những côn trùng khác như cuốn chiếu, châu chấu trắng …Riêng cánh thuỷ tộc, vì quanh năm không có ánh mặt trời, cho nên giống sinh vật bé nhỏ nầy than thể chúng gần như trong suốt, các loài cá tôm sống trong lòng hang, theo con sông ngầm, không có mắt, các nhà bảo vệ đang cố gắng thống kê và duy trì chúng lại vì đã gần tuyệt chủng.
Thực vật trong hang hiếm hoi, vì không có ánh mặt trời, cho nên chúng cũng không thể sinh sản, tồn tại. Nhưng do sự khám phá cuả con người, các ngọn đèn Néon dung lấy ánh sáng chiếu vào vách đá, vừa đủ cho rong rêu sinh trưởng, nhìn kỹ vào những nơi có ánh đèn, trên mặt đá mọc những chấm mịn như tơ màu xanh lá trộn lẫn màu xanh ngọc trông rất lạ. Tuy nhiên để bảo tồn thiên nhiên, trong điều kiện hiện nay, những ngọn Néon đang đựoc thay thế bằng bóng đèn Low Wattage Incandessen, và các nhóm rêu mọc bám theo vách đá được chùi lau sạch sẽ.

3 Violet city lantern tour

Nắng buổi chiều long lanh, đoàn người tập trung lại dưới hàng cây xanh, trước mặt anh hướng dẫn trong bộ đồng phục Ranger màu ka ki vàng, tuổi trung niên, anh đảo mắt nhìn quanh một lượt, đếm số người tham gia, trước mặt anh là mười sáu ngọn đèn bão, anh chậm rãi đọc lời cảnh cáo, một lần nữa nhắc nhở mọi người, vì phương tiện cấp cứu cũng như con đường trắc trở trong hang, yêu cầu mọi người nên lượng sức khoẻ, không nên vì bất cứ lý do nào mà tham dự chuyến đi không cần thiết.. Nhất là không nên vì tự ái và sợ mọi người cười chê vì đã bỏ cuộc. Sau khi đã dặn dò một lượt, nhấn mạnh lại, anh hỏi thêm một lần nữa trước khi khởi hành …
Đoàn người rồng rắn theo sau, con dốc nhỏ, hai hàng cây xanh mượt, tiếng lá reo rì rào. Khe nước mùa nầy cạn khô, hai bên bờ mọc đầy cỏ dại. Dừng lại bên bờ xi măng trước cửa hang, tiếng nước chảy từ trên cao hoà cùng tiếng ve sầu cuối mùa hè thê thiết. Đứng trước miệng hang, anh hướng dẫn hỏi lại lần cuối cùng, khi mọi người xác nhận là sẳn sàng, anh ra hiệu cho người phụ tá, anh nầy lặng lẽ đứng chờ mọi người đi qua, kiểm điểm nhân số và soát vé. Đoàn người trực chỉ vào độc đạo, theo ánh đèn bão lung linh, Cùng con đường chính mà chúng tôi đã vào từ ngày hôm qua theo Historic Tour, những ngọn đèn điện nhỏ, soi sáng con đường nhân tạo dẫn vào lòng hang. Khi qua khỏi căn phòng đầu tiên, nơi hầm mỏ cũ, cắt đứt bóng đèn điện, từ bây giờ chỉ còn lại ánh sáng của ngọn đèn bão theo từng bước chân. Soi bóng đoàn người chập chờn nhảy múa in vào vách đá.
Dừng lại dưới chân tảng đá dùng làm Altar cho Methodist Chuch ngày xưa, anh nhắc lại lịch sử, dấu chân người đầu tiên đã đặt vào vùng hang động nầy, gồm có ba hang dài là Joppa Ridge, Mammoth Caver Ridge, và Flint Ridge, những đồ vật nhặt được trong hang, các nhà khảo cổ nghiên cứu, xác định tuổi, đoán rằng có ít nhất là 2500 năm trước Thiên Chúa, nơi nầy đã in dấu chân nhân loại. Đến năm 1798 thì tên người chủ đầu tiên ghi trong sổ bộ của quận Bowling Green là Valentine Simons
Nhưng mãi đến 1841, khi người nô lệ Stephen Bishop, chuyên viên huớng dẫn du khách vào thăm viếng hang động , anh tìm ra Snowball Room, năm trước đó thì Bishop đã khám phá ra Echo River và Mammoth Dome. Anh được trả tự do vào năm 1856. Suốt cuộc đời anh luôn gắn bó với thạch động nầy, nhưng anh ta chỉ hưởng thọ được ba mươi sáu năm, và qua đời một năm sau đó.
1917 Floyd Collins tìm ra Crytal cave trong Flint Ridge, nhưng trớ trêu thay, cũng chính ông lại mất đi vì bị chôn trong hang cát [Sand Cave]. Khi ông làm chuyến thám hiểm vào hang, cát sụp che mất lối ra, mọi cố gắng giải cứu đều thất bại, ông chết sau mười bảy ngày.
Đến 1926 thì president Calvin Coolidge chính thức nhìn nhận diện tích của Mammoth cave Naional park là 20,000 acres đất đai bao bọc. Và cho đến tháng bảy năm 1941 thì trở thành National Park, nhưng chưa kịp tổ chức ngày lễ khai mạc chính thức thì cuộc chiến tranh thế giới thứ nhì bùng nổ, phải chờ đến tháng chín năm 1946 thì mới được tổng thống Franklin D. Roosevelt khánh thành.
Đến năm 1972, sau khi tìm ra được con đường ăn thông giữa hai động Flint Ridge và Mammoth thì hệ thống hai thạch động trở thành Hang dài nhất thế giới, chiều dài 144,4 dặm Anh đã được ghi chép và xác định lai.

Bệnh viện trong lòng hang.
1839 Bác sĩ John Croghan sau khi đi chu du khắp Âu Châu nghiên cứu, trở về nước, Ông đến thăm Mammoth Cave, và nảy ra ý định khai thác vùng đất nầy, ông mua lại từ Franlin Gorin với giá 10,000 đô la, ông cho xây cất khách sạn, tổ chức hướng dẫn du khách đến thăm viếng hang. Khách sạn nầy là nơi đón tiếp du khách trên thế giới cho đến 1916, bị hoả hoạn thiêu rụi.
John Croghan hành nghề y sĩ từ năm 1814, ông muốn thử nghiệm cách trị bệnh lao phổi, nghĩ đến thời tiết và hơi ẩm trong hang có thể giúp người mang bệnh lao. Ông cho xây những căn phòng đá gỗ trong lòng hang, và kêu gọi sự tham gia của các bệnh nhân, có đến 15 người tình nguyện vào cuộc thí nghiệm nầy. Nhưng kết quả không như ý ông mong muốn, vì không chịu nổi khí lạnh trong hang, các bệnh nhân chết dần mòn, một số được chôn cất trong khu nghĩa trang Old Guide’s Cemetery gần miệng hang.Trớ trêu thay, cũng chính vị bác sĩ nhân ái nầy đã bị truyền nhiễm và chết vì căn bệnh lao phổi nguy hiểm đó vào năm 1849.

Bầu trời đầy ánh sao.
Ngọn đèn bão lung linh, soi từng bước chân theo nhau, bụi cát dưới chân di chuyển nhẹ nhàng, dấu tích của những căn phòng nằm dọc theo đường mòn, nghĩ đến bệnh nhân sắp từ giã cõi đời, nằm yên trong bóng tối, khuôn mặt xanh mướt vì ngày tháng không có ánh mặt trời, đôi hố mắt vô vọng nhìn thẳng vào khoảng không, bầy vi trùng đục phá hai lá phổi rách mướp, rạc rài từng hơi thở, trong nỗi đau đớn vô cùng. Người y tá vào thăm, câu hỏi han hàng ngày, bàn tay ấm áp sinh khí, chuyền chút sức sống vào cái xác lờ đờ sống dở, dù chỉ còn trong phút giây, nhưng vẫn là ánh sáng, nhìn lên trần cao, những đốm sáng từ chất diêm sinh lập loè, trông như bầu trời của đêm đầy sao, nằm yên lặng trong cái ảo giác, được bay cao theo những vì sao xa tắp. Dù sự sống có mòn đi, cái chết bình an sẽ hiển hiện.
Ngước nhìn theo ánh đèn chập chờn, vào khoảng không tối đen, những giọt mồ hôi đá lân tinh lấp lánh, tôi cảm nhận được sự bình an nhiệm mầu.
Rời căn phòng chứa bầu trời đầy sao, trước mặt đèo dốc cao quanh co, khi trèo lên trên lưng chừng, nhìn lại phía sau, con đường hoa đăng lấp lánh. Có những đoạn chỉ bước theo chân nhau, vì qua khúc quanh thì không còn ánh đèn để nhìn thấy ổ gà lổm chổm. Người hướng dẫn dừng lại, ảo giác hay chính tai tôi nghe tiếng nước chảy đâu đây, ánh sáng hai ngọn đèn pin chợt bùng lên rực rỡ, soi tia nước từ trên cao chảy dài xuống phản chiếu như lưu ly, những ánh mắt long lanh nhìn lại nhau, ngôn từ bay biến, thật là diệu kỳ, dòng nước như con thác nhỏ, quanh năm suốt tháng bất tận, vì đang là mùa khô nên chỉ mong manh giống như sợi dây lụa thả xuống từ trời cao, màu nước huyền hoặc, lấp lánh như đang say mê vũ khúc của Cung Hằng, sang mùa mưa sẽ biến thành dòng nước nhỏ hiền hoà, hay trở thành cuồng lưu thác lũ tuỳ theo lượng mưa ít nhiều đổ xuống từ trời cao.

Phiến đá tử
Theo tay chỉ của người hướng dẩn, nhìn lên mõm đá đứng chơ vơ, nghêng mình như làm dáng cùng vạn vật bình yên, im lìm. Thật ra, đây là nơi cướp đi sự sống cuả một con người.Vì nhiệt độ, cùng điều kiện khô ráo trong long hang, như chất ướp xác thiên nhiên và giữ cho xác chết hãy còn nguyên vẹn đến khi tìm được.Người thổ dân xấu số nầy chết dần mòn trong bóng tối, anh còn đủ dụng cụ để cạo lấy chất diêm sinh trong đá, tuổi trạc trung niên, anh mang theo túi da, thực phẩm, nước uống, có lẽ anh vào hang và làm việc một mình, vì khi tảng đá long ra lăn xuống và kẹp chặt anh trên vách, bên cạnh anh, còn cả ngọn đuốc dầu chai, ánh sáng tắt lịm dần, mang theo sự sống mòn mỏi, anh chết âm thầm và nằm nguyên vẹn cho đến khi tìm được. Năm 1976 {?}sau khi đạo luật cấm chưng bày di thể con người được ban hành, để tránh sự xúc phạm và đắc tôị với người chết, cho nên thi thể anh được dời đi (Có thể trả về cho Bộ lạc hay được chôn cât tử tế?)
Căn phòng rộng chừng ba mẫu, nơi dừng chân trước khi đoàn người leo lên con dốc cuối cùng. Từ trên góc đá nhìn lại những khuôn mặt, dưới ánh đèn dầu lung linh, người hướng dẫn nhắc lại, hơn hai trăm năm trước đây, những người khai phá, cùng những du khách đã đi qua con đường hầm nầy, đứng trước vách đá, nhìn lại chunh quanh, bàng hoàng trước sự hình thành kỳ diệu của thiên nhiên, nghỉ chân chốc lát, và cuối cùng thì quay lại con đường đã đi qua, trở lên mặt đất, tìm lại khung trời mây bát ngát, vùng đồi cây lá xanh mượt với những trũng sâu khắp nơi do dòng nước soi mòn, trăm năm sau, những trũng sâu lại biến thành hang động, theo sự khám phá không ngừng của con người.

Lời cầu chúc cuối cùng của người hướng dẫn, nhìn lại nơi vừa đi qua, con dốc ba mươi nấc thang không đều dẫn dắt đoàn người về lại bầu trời xanh. Khung cửa nhỏ mở ra, nắng chiều lấp lánh sau cành lá, ba chiếc xe buýt đang nằm chờ, đoạn đường ngắn trổ ra sườn đồi nầy chỉ là con đường nhân tạo, khai phá thêm gần đây…Violet City, thành phố tím trong lòng chúng tôi như đoá hoa man mác.

Vũ Thị Thiên Thư