Thới Long, tuổi thơ ơi !

 

 

Thới Long, tuổi thơ ơi !

Hình ảnh ngôi đình làng trong tôi vẫn còn hiển hiện như bức tranh vẽ muôn màu, những ngày lễ kỳ yên, ông tôi khăn áo tề chỉnh đi tế thần.Tôi lớn lên như cây luá xạ hồn nhiên chờ nước lớn. Bên cạnh đình làng là ngôi trường hoc, hai hàng lớp song song, ông tôi xây một dẫy ba căn khi người về dựng làng, trước tôi là Ba và các cô chú, mỗi người đều bước qua cổng trường nầy. Đến thời chúng tôi thì dân số gia tăng, nhu cầu cùng chính sách cưởng bách giáo dục của thời đệ nhất cộng hoà , làng biến thành Xã Thới Long và trường làng xây thêm một dãy bốn phòng học mới.

Trước cổng đình có ba cây sao, ông thường bảo rằng ba cây đó lớn tuổi hơn cả Ba tôi, lúc tôi còn nhỏ điều nầy không gây được một ý niệm gì hết, chỉ khi nào tôi theo Ba đi thăm thành phố, ngồi trên chiếc xe đò duy nhất trong làng chạy đường Cần thơ về, nhìn thấy từ xa những ngọn cây sao, trong lòng  thật nôn nao khó diễn đạt, chút thân thương ấm áp , biết mình đã tới nhà. Hay những ngày gió lên, chạy chơi cùng chúng bạn, nhặt hoa sao tung lên trời như chiếc cầu lông, nhìn cánh hoa xoay vòng như bông vụ rơi xuống đất, tôi ao ước cánh hoa bay cao, thật cao, chở cả tuổi thơ ngây lên mấy tầng mây trắng.

Mỗi ngày, chúng tôi qua sông đến trường, dòng sông  trong trí nhớ cuả tuổi thơ thật rộng lớn, những mùa nước lên, hai bên bờ  nước tràn vào tận mé đường. Mỗi dấu chân đi, từng bước, qua đập nước, ngang lẫm lúa của ông Tư Kính, chúng tôi phải nắm lấy tay nhau cho chắc, nước chày xiết, tràn qua mặt lộ, đường đi rất trơn, té xuống ướt sách vở lem nhem.Dòng sông cũng là điểm hẹn nhau trốn ngủ trưa ra sông tắm mát, chúng tôi vừa lên ba là ông tôi cho xuống sông tập bơi, ông bị ám ảnh với hình ảnh trẻ con chết chìm, hàng năm Ba tôi vẫn phải đi khám nghiệm và ký khai tử cho trẻ con chết trôi sông. Chúng tôi sống bên cạnh bao nhiêu là sông ngòi, phương tiện di chuyển chính lúc bấy giờ ở nhiều nơi vẫn là chiếc xuồng ba lá. Mùa nước nổi, đường xá ngập lụt, chỉ có xuồng mới chống qua những cánh đồng bát ngát, trời nước mênh mông.

Trong khung cảnh địa dư và những thay đổi của thời gian, ngôi đình làng vẫn còn đứng thầm lặng thách đố. Tôi ra tỉnh học, đi về mỗi cuối tuần. Bây giờ hình ảnh của làng mạc với luỹ tre xanh với con đường mòn chỉ còn nằm trong sách vở. Ngôi đình làng bên cạnh trường tiểu học, là nơi tôi về thăm hàng năm vào dịp Lễ kỳ yên, cho dù đang là muà học thi,  tôi vẫn trở về tham dự. Ông tôi lại khăn áo ra tế thần, cuộc rước lễ với cờ ngũ sắc, áo mão  vủ khí , gươm đao sáng ngời, không còn là những hình ảnh lạ thường kỳ dị trong tâm tưởng của đứa bé lên năm, cũng như bên trong những bộ áo của Tứ tướng thiên vương, hay Đào tiên cô là những người diễn viên sân khấu,  xanh xao vì son phấn với ánh đèn.

Bấy giờ, tôi biết yêu thương hình ảnh thật bình dị ngôi đình làng, với mái ngói cong chạm  hình rồng, căn nhà khói làm phòng ăn chung mỗi lần lễ lạc. Nơi trẻ con thường lén vào bẻ đuôi heo quay cột giấy bóng đỏ ra ngoài chia nhau. Bà tôi cấm tuyệt chúng tôi , không dược ra phía sau đình đùa chơi với trẻ con trong làng.Từ bên trường học nhìn qua hàng cây gáo, cây bàng, lau lách và cỏ tranh mọc tràn lan , che khuất con đường mòn , chưa kể đến những chuyện ma quỉ lộng hành trong buổi trà dư tửu hậu. Sau nầy, ông tôi mới giải thích là phía sau đình là khu nghĩa trang , nơi chôn các chiến sỉ Hoà Hảo tử trận.         Vì địa thế của ngôi đình làng, nằm ỡ ngã ba, hai mặt là sông nước, không còn đất đai để phát triển, nên chợ phải dời về bên kia sông . Những năm chiến tranh sau nầy, nghĩa quân đào hầm, gài chông để bảo vệ đình làng và cũng để chống lại Cộng quân về khuấy nhiễu .
Thời tuổi nhỏ ở Thới Long, sống  bình yên như lúa xạ ngoài đồng, tôi đi học hàng ngày bầu bạn với con chó Kiki, chạy rong chơi khắp trong sân trường, nhặt lá bồ đề về ngâm, chờ cho lá mục hết chỉ còn lại gân lá, nhuộm màu và mang ép vào sách vở. Hoăc chờ đến mùa nước nổi,  con nước lên cao, học trò được nghỉ học,  thế là ra sau vườn nhà bắt cá lìm kìm, mang về nuôi trong bình thuỷ tinh….

Tuổi thơ, những thay đổi chính trị không vướng bận gì. Chiến tranh là những đêm đang ngủ say,  Bà ôm vào nằm trong hầm trú đạn, Ba mở cửa ra cho người vào để băng bó vết thương, thường thì vết đạn bắn sẻ, hay là đạp phải chông nhọn. Tôi thường lẻn theo chân Ba, vào phòng làm việc… Lúc đầu Ba bảo

–          Trẻ con, đi ngủ đi.

Nhưng dần dà, Ba cho tôi phụ giúp, khi cầm đèn soi, lúc sai vặt, lấy kềm kẹp và chỉ may…Nên mỗi lần có tiếng người gọi cửa ban đêm là tôi cũng theo Ba thức dậy. Ba không bao giờ hỏi han khi đang làm việc, tôi cũng chỉ im lặng phụ Ba băng bó, cầm máu, trấn an bệnh nhân, cùng ngồi chờ trời sáng để đưa di bệnh viện giải phẩu, gắp những viên đạn nằm sâu sát những bộ phận quan trong trong cơ thể, mà dụng cụ thô sơ của Ba không giúp được.

Cộng sản chỉ là hình ảnh những xác người nằm dưới xuồng phủ chiếu lát. Những tối kèn tây thổi bên kia bến đình, và đạn bắn hai bên sông . Buổi sáng đi học ngang đồn nghĩa quân, nhìn gạch đá đổ ngổn ngang, vòng rào kẻm gai còn ngăn chặn lại. Hay những chiều, có người bà con xa bơi xuồng về báo tin cộng quân đang kéo về khu Giáp Nước, ngày mai Ba không nên đi họp ở tỉnh  lỵ, vì đã có thông báo là sẽ bắt cóc Ba mang về trong bưng biền, cả vùng nầy chỉ có Ba là người thầy thuốc duy nhất , nổi tiếng lương sư và rất khéo tay băng bó, chửa trị vết thương.

Tôi học năm cuối cùng bậc tiểu học, chiến tranh càng lúc càng thấy gần hơn, hay vì tôi bắt đầu khôn lớn, và đã hiểu rõ hơn. Mỗi ngày, Ba lên công sở nhận công điện, có những ngày về nằm vất vưởng không buồn ăn trưa. Tôi thấy chiến tranh thật gần bên, khi Ba tôi cầm tờ công điện màu vàng trong tay run rẩy,  cả nhà đang chuẩn bị đám giỗ, Bà tôi ngồi xé lá chuối để gói bánh tét, tôi đang cầm khăn nhúng dầu lau cho mượt, Mẹ tôi quay sang hỏi Ba:

–  Uả,  hom nay anh về sớm,  bệnh hả?

Khuôn mặt Ba xanh như màu lá tôi dang lau. Ba nhìn Mẹ nói:

– Công điện  vừa báo tin: Chú Năng con Cô Tám mới tử trận .

Cả nhà ngẩn ngơ, Chú Năng vừa về chúc Tết cả nhà tuần trước. Chú đang đóng quân ở Chương Thiện, dưới quyền chỉ huy của Bác Sáu, bị phục kích tử trận tối qua. Bà tôi lau nước mắt khoát chiếc áo bà ba trắng vào và bảo Ba

– Thôi để Má đi báo tin cho.

Chú Năng là người em họ đầu tiên Ba tôi ký nhận, Chú cũng không phải là người duy nhất trong họ tử trận. Vào tháng sáu cùng năm, Ba tôi dậy nửa đêm, Chú Trò con bà Tư bị bắn sẻ, khi chở ra đến bệnh xá, chú kiệt sức, chết trên tay Ba. Mùng ba Tết năm sau, Ba nhận một lúc hai hung tin, con Bà Năm, cả hai chú bị ám sát chết cùng ngày. Tôi mất chú Tư, mất đi nguồn tài trợ, chú Tư làm Đại diện xã, cũng là người mang sách kiếm hiệp Kim Dung về cho tôi đọc hàng ngày. Bà tôi cấm không cho đọc những thứ nhảm nhí đó, tôi thì chán đọc chuyện thơ Tấm Cám, Phạm Công Cúc Hoa…Chuyện kiếm hiệp mở cho tôi một nhân sinh quan,  chân trời mới, có núi non hùng vĩ, có những hiệp sĩ cứu nhân độ thế,  hành hiệp giúp đời…Và nhất là không sợ hết chữ để đọc, vì mỗi bộ truyện kiếm hiệp dài chừng chục cuốn.

Cuối năm học tôi khăn gói về tỉnh thành , không còn những ngày thơ thẩn trong vườn cây vú sữa của Bà, không còn nằm vắt vẻo trên nhánh cây chờ chim hót trưa hè. Mùa mưa,  cũng là mùa nhập học, bây giờ đã là thiếu nữ, áo dài trắng thướt tha, mỗi cuối tuần vẫn về nhà, ngang qua cây cầu xi măng, cốt sắt,  thay cho cây cầu gỗ nối hai bên bờ sông.Tuy nhiên, ông vẫn  còn giữ chức hương trưởng, chánh tế, ra đình làng tế lễ hàng năm, và tôi vẫn còn trốn học để về tham dự…

Mỗi lần ngồi trên xe đò về quê,nghe mấy anh lơ xe cãi nhau giành khách hàng buông miệng:

– Mầy có dám thề không qua khỏi lộ tẻ Bằng Tăng .?

Lộ tẻ Bằng Tăng có phải là tuyệt lộ, hang hùm, truông nhà Hồ hay phá Tam Giang mà những tay anh chị đứng bến xe đò phải thề không qua khỏi?

Bằng Tăng là tên địa phương của một làng nhỏ nằm cách tỉnh lỵ Cần Thơ  chừng ba mưoi cây số về phía tây bắc, bên cạnh dường liên tỉnh số 9,  nối liền Long Xuyên Cần Thơ. Thời Đệ nhất cộng hoà đổi tên lại là Xã Thới Long. Từ ngoài tỉnh lộ đi về hướng sông Hậu Giang, nhìn thấy chòm cây với ba ngọn sao cao vút, đó là dấu tích còn lại của hàng sao trồng trước cổng đình làng. Thới Long  là nơi tôi sinh ra và lới lên, nơi tôi nhởn nhơ rong chơi với con chó Kiki, khi người làng trông thấy tôi chạy chơi là biết con Kiki quanh quẩn đâu đây. Họ vẫn thường bảo bọn trẻ con nên tránh xa vì

– Con chó đó là giống chó săn, dữ dằn lắm, cắn chết người như chơi.

Lúc tôi học tiểu học ở Bằng Tăng thì hệ thống hành chánh đã thiết lập. Trong làng có Đại diện xã, Uỷ viên cảnh sát, thư ký, nhân viên hộ tịch…Thay cho các chức vụ đặt ra dưới  thời quân chủ. Những ông cả, ông chủ, ông hương… chỉ còn là hình ảnh khăn the áo thụng ngày kỳ yên ra tế thần thôi. Tuy nhiên, ông tôi vẫn còn giữ lại  được bộ sổ điền địa trong làng. Ngày ông mộ dân về xây dựng làng xã và chia xẻ đất đai, ông đã ghi chép cẩn thận, định ranh giới công điền, phân biệt với đất đai của tư nhân. Chính Ông lo xây trường, lập chợ. Và cũng chính Ông là người xây hai lớp học đầu tiên, mời và trả lương thầy giáo  dạy cho trẻ con trong làng. Sau nầy  cơ sở được chính quyền hợp thức hoá và trở thành trường tiểu học Xã Thới long.

Tôi đến trường khi mới lên năm, thời đó trẻ con ở vùng quê đi học rất muộn, có những học trò tuổi không kém thầy cô bao nhiêu.. Nhưng ông Nội bảo thầy giáo:

– Thầy cho tôi gởi cháu vào lớp, đi cho quen thầy quen bạn.

Tôi là học trò bé nhất lớp, thường được ngồi gần bảng và bàn của thầy cô. Ông đã có lời gởi, chỉ đi cho quen trường quen bạn, nhưng rồi mỗi năm tôi đều lên lớp,  nên cuối cùng không đủ tuổi để vào đệ thất trường nử trung học. Ba phải làm đơn xin miễn tuổi cho tôi thi vào trường .

Mỗi ngày, khi tôi đi học thì con chó Kiki vẫn theo như hình với bóng. Nó là giống chó săn của Đức. Ông nuôi từ lúc dứt sữa mẹ, nó vừa theo bảo vệ vừa là bầu bạn với tôi. Những ngày tuổi nhỏ Ông vẫn thường nhắc nhở tôi phải cẩn thận, không được đi chơi xa, lúc nào cũng phải có người lớn trông chừng. Ông sợ tôi bị chúng bắt cóc mang đi.

Những năm sau nầy, dù Ông đã về hưu, không còn tham gia vào các hoạt đông trên chính trường, nhưng người làng vẫn có thói quen đến cầu kiến, từ việc tranh chấp đất đai, đến việc phân xử trong nhà…

Chuyện bắt dầu từ những năm tôi chưa sinh ra, chỉ nghe mọi người kể lại. Lúc đó ngưòi làng tôn kính, không dám gọi tên, chỉ goi Ông Ba theo thứ sinh trong nhà, và cũng để phân biệt với Ba Cụt tức là Trung tướng Lê Quang Vinh là cháu gọi Ông bằng cậu. Lúc Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ khai sáng ra đạo Hoà Hảo thì Ông xuống tận Đốc Vàng xin qui y. Sau đó về làng thì dạy dân ăn ở theo mẫu mực và đạo đức của Đức Thầy. Những năm Việt Minh thì Hoà Hảo có cả một binh lực hùng hậu, nhưng mỗi địa phương có một vị lảnh đạo, các tỉnh miền Tây thời bấy giờ thì tướng Ba Cụt rất nổi tiếng. Tổng hành dinh đặt ở quận Thốt Nốt, trong rạch Trà Bay, cách tỉnh lộ chừng một cây số. Đó là hậu cứ, nơi dưỡng quân , và cũng là nơi giam giữ phạm nhân chờ phân xử.

Quân dội của Tướng Lê Quang Vinh hầu hết là những trai tráng trong vùng, họ là tín đồ  Hoà hảo. Thuở nhỏ, tôi cũng không quan tâm đến công hay tội, kiêu binh hay loạn tướng, anh hùng hay thảo khấu, chỉ biết là dân quanh vùng đều sợ hãi, khi nhắc đến tên chỉ dám thì thầm cùng nhau . Mỗi lần chỉ huy hành quân về,  thường mang những tội phạm đang bị giam giữ ra trừng phạt. Mọi người thường bảo nhau ,

–          Đến gặp Ông Ba, nhờ ông giải quyết thì chuyện sẽ xong ngay.

Ông Nội là người được Tướng Ba Cụt kính nể nhất, vẫn thường về vấn an, tham khảo và quyết định kế hoạch. Chính là  người có thể khuyên nên bắt tội hay dung tha, nhưng ông tha nhiều hơn bắt, khuyên nên lấy đức độ mà đối đãi với dân chúng, bởi thế mọi người biết tiếng lành, khi có thân nhân bị giam ở tổng hành dinh là mau đến đón Ông sang đó, bộ đội đóng ở dinh bộ đến tha người, không ai dám càn ngăn .

Vì những lần tha nhiều hơn bắt tội mà người địa phương thương kính Ông nhiều hơn , nhưng ông vẫn thường bảo rằng:

– Phàm ở đời chín người thương cũng còn một người ghét, kẻ gian phi vẫn đầy dẫy, luôn luôn phải cẩn thận,  đề phòng vẫn tốt hơn.

Đó là một trong những lý do tôi có con chó Kiki theo như hình bóng.

Những huyền thoại về Tướng Ba Cụt làm cho mấy tay anh chị đứng bến xe đò phải e dè. Nhắc đến chỉ sợ tai vách mạch rừng, dù những sự kiện sảy ra ,mọi người vẫn không tin rằng ông có thể bị ám sát hay thủ tiêu ,một ngày nào đó tướng Lê Quang Vinh sẽ trở về và nổi dậy, bấy giờ công tội sẽ phán quyết và không ai muốn mình là kẻ có tội đối với ông. Mỗi năm trong làng vẫn tổ chức ngày giỗ vào ngày chiến sĩ trận vong, khu nghĩa trang của các chiến sĩ Hoà Hảo nằm cạnh nhà lồng chợ, nghĩa quân thường trú đóng canh gát cẩn thận để bảo vệ, cho đến khi đồn nghĩa quân dời về đầu chợ, vẫn còn cử người canh phòng, hương khói ngày đêm.  Lễ Giỗ long trọng như ngày hội, bao nhiêu là heo ,gà vịt quay chè xôi … Hương chức,hội tề, bổn đạo , đều đến tham dự, chè chén linh đình.

Tôi lớn lên trong những hình ảnh màu sắc của ngày lễ Kỳ yên, lễ kỷ niệm ngày khai sáng đạo Hoà Hảo…

Trường tiểu học Thới Long nằm bên cạnh đình làng. Ngày rằm tháng ba hàng năm là ngày tế lễ. Kiệu hoa đến rước sắc thần và gươm lịnh từ đình làng, cuộc diễn hành rước lễ bắt đầu, từ chánh điện, sang Cầu Đình , ngang sông , qua đồn nghĩa quân, nhà lồng và hai dẫy phố chợ… dẩn đầu bằng đội lân mã,với Tề thiên ( Hình dạng con người và là đại đệ tử của Huyền tăng Tam Tạng trong thiên truyện Tây du ký, người làng dùng biểu tượng của ông để “diệt gian trừ tà” ) ông Địa ( biểu tựơng của an vui ) đoàn diễn hành đi theo sau, có học trò lễ đội mảo chuôi dài, đào thày áo quần sặc sỡ…Trước cửa mỗi nhà đều treo pháo đỏ và bày hương án với nghi ngút khói hương. Những cửa hàng tạp hoá còn bày thêm  bánh kẹo để ông Địa đến  thu nhận và phân phát cho trẻ con.

Chiều đến mẹ cho chúng tôi tắm rửa thay quần áo mới để theo ông đi cúng Thần. Bà tôi bảo người làm bưng mâm sôi nếp, bánh trái mẹ sắp sẳn, trước  là cúng Thần,  sau đó sẽ ở lại sân đình xem hát bộ diễn tuồng. Chúng tôi ngồi bên cạnh Bà Nội, nghe giải thích từng lớp tuồng đang diễn, hầu hết là những điển tích, chuyện ta hay chuyện Tàu, Bà đều thuộc nằm lòng. Và hầu như mỗi năm chúng tôi đều ngủ gục trước khi lớp cuối cùng diễn xong. Dù năm nào chúng tôi cũng năn nỉ Ông đánh thức dậy đễ đi xem xây chầu, nhưng mãi đến năm tôi học lớp nhất trường làng mới chịu tỉnh giấc để theo Ông đi xem.

Tôi rời làng quê, về thành phố tiếp tục học Trung Học, hình ảnh quen thuộc của những ngày lễ hội không còn gây được những háo hức chờ mong như thuở nhỏ, tuy Ông vẫn còn chủ tế hàng năm, nhưng bây giờ tôi đã có những niềm vui mới. Con chó Kiki đã già yếu, năm tôi vào trường trung học tỉnh lỵ cũng là lúc Kiki từ giã cõi đời.Tôi mất đi người bạn tung tăng khắp nơi. Mỗi cây số đường về làng như tuổi thơ tôi xa vạn dặm.

Thời Đệ nhị Cộng hoà, khuôn mặt Bằng Tăng cũng thay đổi rất nhiều . Làn sóng Mỹ viện trợ với những ngôi nhà xây bằng gạch in cát trộn xi măng mái lợp tôn, thay cho vách lá kèo tre. Những chiếc xe gắn máy Nhật đã tràn vào làng vào xóm, những cây cầu gỗ bắt ngang sông rạch đã được thay thế bằng cầu móng đá xi măng. Dân làng đã dùng những máy cày, máy xới đất loại nhỏ, lúa thần nông còn gọi là lúa ba tháng đã thay lúa xạ … Chương trình cải cách ruộng đất, “ Người cày có ruộng “ đã  thay đổi quyền sở hữu và cuộc sống của dân làng. Cuộc chiến tranh giữa hai bên Quốc Cộng vẫn diễn ra hàng ngày, những cán bộ nông thôn áo đen về làng, những chiếc áo quan phủ cờ vàng và những chiếc công xa, hồng thập tự , về đậu ở bến đình.

Bằng Tăng là thí điểm xây dưng những công trình mới, chính sách mới, từ canh tân nông nghiệp, đến  kỹ thuật khoa học, phân bón hoá học ào ạt theo giống lúc Thần Nông đánh bật lúa Trà Vàng, Đông hưng, Tàu binh ra khỏi nồi cơm gạo mới mùa gió bấc thơm lừng .
Tuy nhiên cái thân thiết mộc mạc vẫn còn. Bến đình, cây sao vẫn đứng thầm lặng nhìn những thay đổi của tháng năm. Tôi về làng mỗi năm, những ngày nghỉ lễ, những tháng hè … gốc cây Bồ đề Ông tôi trồng trước Đọc giảng đường Hoà Hảo càng lớn lên. Tôi vẫn theo Ông tôi đi cúng thần, những người dân làng chất phác vẫn đến xin Ông hoà giải khó khăn gia đình, tranh chấp đất đai.

Ngày quân đội tan hàng, chưa kịp đánh mà thua, tôi lang thang ở thành phố , đi tìm chút hy vọng, chút hoài mong quê hương ngày hoà bình.Tôi lăn vào công tác xây dựng, quét đường, quét rác rưởi, quét tàn tệ của chiến tranh. Tôi cố gắng tìm yêu thương làm hành trang cho cuộc sống. Nhưng chỉ ít lâu, đối diện với thực tế phủ phàng , tôi què quặt trở về làng, nhìn Ông tôi già hiu hắt. Lại công tác phục vụ nhân dân, lại thanh niên đoàn ngũ hoá, cái mã hoc trò giò cô giáo của tôi thế là được đề cử đi dạy bình dân học vụ. Cách mạng , nên mọi người dân đều phải đóng góp. Mấy bà cụ học trò bảo tôi:

–   Tao già tuổi nầy rồi, ít lâu nữa là theo Ông bà, bộ tao mù chữ cách mạng giữ lại không cho đi sao? Mấy chục năm nay tao chỉ cần gạch chữ thập ký tên là đủ rồi.

Học được chữ nầy thì quên chữ nọ, cán bộ chính chị chính em thì lúc nào cũng thao thao bất tuyệt, đường lối chủ trương của đảng thì thuộc như sáo, nhưng cầm viết lên làm một bài luận văn tả con trâu chì chưa được đôi dòng đã hết ý.

Mẹ thấy tôi ngày ngày đi họp hành, tối về chong đèn viết cả đêm. Người càng lúc càng héo khô hiu hắt.

– Thôi con về tỉnh tìm việc đi, mai lại phải vào thanh niên xung phong đi Năm Căn Bảy Ngàn đào kinh đắp đập…

Tôi trở lại Long Xuyên, tìm bạn bè thân quen cũ. Đứa đang bán chợ trời, đứa thì nón tai bèo dép râu, đứa đã vào Thất Sơn Núi Cấm… Mấy đứa em lớp sau bàn tính

– Chị khai lý lịch ba đời bần cố nông, em sẽ nộp vào trường, lang thang hoài biết làm gì cho qua ngày tháng?

Thế là tôi thành con cách mạng, áo bà ba vào trường Cao đẳng Sư phạm . Ngày tháng qua đi, học tập như cháu ngoan, ca cách mạng thuần thành, hát như máy móc … cuối tháng kiểm điểm, xếp hàng mua nhu yếu phẩm, dành dụm chút đường, chút cà phê để mang về làm món quà tư bản cho Ông .

Vũ Thị Thiên Thư

 

Leave a Reply