Giọt nắng cuối chiều 4

Giọt nắng cuối chiều 4

 

 

4 Giọt nắng

 

Giọt nắng xuyên qua khe gỗ, in xuống những hình kỷ hà loang lỗ trên nền gạch, vuốt giọt mồ hôi trên trán, nhưng không thể ngăn được những giọt lăn dài theo đốt xương sống trên lưng. Nhẩm đếm mấy cây hoa trong phần khay còn lại, đã trồng được hơn một nửa rồi. Nắng trưa bắt đầu gay gắt, Trân nhìn màu cỏ xanh mượt sau cơn mưa, mùa hè Bắc Mỹ đi ngược lại tuổi đời, tuổi càng lên cao mùa càng ngắn lại, đám hoa Thuỷ Tiên vàng sau mùa xuân đã tàn, hàng Uất Kim Hương chỉ còn một ít khoe màu muộn màn, những chồi Iris cũng chực chờ trong nắng sớm . Bên góc nha,ø hàng Peony đã xanh mượt, nhánh nặng trĩu nụ hoa…

Trân tiếp tục xới đất, lượng khoảng cách, đặt từng thân cây nhỏ nhoi xuống, lấp đất cho đầy và tiếp tục, hàng hoa kèn Petunia, sau đó là hàng lá bạc, tránh xa hàng Tulip, Trân nói thầm với chính mình “cuối mùa nầy phải đào lấy củ lên, sang thu sẽ trồng lại”. Cái hàng rào dây cuối vườn trông xấu xí thế kia mà được việc, ít nhất thì cũng che chở cho những nụ hoa Tulip vừa mới ló dạng, họ hàng nhà Ngọc Thố cứ lăm le nuốt chững vào dạ dày lép xẹp sau mùa đông dài lê thê.

Mùa đông, khu rừng sau nhà chỉ là những cành cây khẳng khiu. Nổi chờ đợi thắt thẻo, cuối cùng dọn vào căn nhà mới xây khi tuyết còn phủ trắng chân đồi, trăng Thượng Nguyên long lanh thướt tha ngoài cửa sổ, dịu dàng trên nền tuyết lấp lánh như gương soi. Đêm đầu tiên nằm yên trên sàn nhà, căn nhà trống rỗng, cửa chưa màn che, phòng chưa giường chiếu, nhìn ánh trăng bay bay, những vệt sáng di chuyển, nhảy múa dịu dàng, nếm từng giọt tĩnh mịch trên đầu lưỡi, mùi hương thơm bình an. Cái cãm giác nhẹ nhàng, bay bổng, như những ngày tuổi nhỏ nằm trong lòng Ngoại trên chiếc võng đong đưa .

Tháng giêng, cơn bão tuyết đầu mùa, những tinh thể trắng ngần, từng hạt li ti bám vào nhau như trăm nghìn đoá hoa, bay phơ phất trong trời. Trân nhìn đóa hoa trắng nuốt, nhớ lại những hoa gòn tơ mỏng bay trong nắng, ngày tuổi nhỏ, trong khu vườn sau, hai chị em chạy tung tăng đuổi theo, nắm lấy tơ hoa vào bàn tay, rồi lại đưa lên môi thổi bay đi, trả lại cho không gian phiêu phất. Nhìn các con như bầy chim vỡ tổ, tung tăng mang máng tuột, giầy tuyết, khăn quàng cột phất phơ, rủ nhau từ trên đồi cao thả máng chạy dài xuống, niềm vui đơn giản, như Mẹ và Dì thuở nhỏ mang mảnh ván chờ nước ròng ra bãi bùn chạy chùi xuống lòng sông, tiếng cười đùa vang vọng, buổi sáng trời trong xanh buốt. Những ngày tuyết rơi, liên tiếp, các con vẫn vô ưu, không còn nhìn thấy mặt đất, chỉ một màu mênh mang, được nghỉ học là niềm hân hoan, tiếp tục các cuộc vui, bày thêm trò chơi mới, ra sân vò tuyết đắp thành hình tượng, những người tuyết lớn bé đứng trong sân nhà, nhìn như thằng bù nhìn đang phe phẩy trên ruộng dưa .

Mùa đông dai dẵng, bất tận, rồi cũng qua đi, những hạt tuyết long lanh giã từ, vậy đó, đếm từng mùa đã đầy hai bàn tay. Như đôi vợ chồng chim Robin đã rời bỏ tổ ấm êm, mang bầy con vào khung trời bát ngát. Nụ xanh phơn phớt, lấm tấm trên cành cây khô, từng ngày, những cơn mưa xuân rào rạt, từng chồi xanh non nhởn nhơ, nụ hoa Forsythia rực rỡ trêân cành, nhìn màu vàng trong nắng, lại nhớ rừng Mai khoe sắc ngày đầu năm. Khu vườn nhỏ, từng viên gạch lót, từng khúc cây cưa cắt, mùa tiếp mùa, bao nhiêu giọt mồ hôi đổ. Hàng Cúc vàng mỗi cuối ha,ï đầu thu, hãy còn đang xanh mượt lá.

Trân nhìn sang góc cuối vườn, cây đào trồng mùa xuân đầu tiên khi về nhà, hoa nở cuối tháng tư, màu hồng phấn mong manh, nhánh đã trĩu nặng trái xanh Trong bóng hoa lả lướt nghiêng mình, thấp thoáng chút ánh sáng mùa xuân, có hình ảnh người đàn bà với mảnh khăn rằn vắt lên che mái tóc, trên tay cầm chiếc nọc cấy… Có hình ảnh bà hiu hắt lúc bóng chiều loang, bà với nụ cười móm mém của hàm không còn răng, bà của đôi bàn tay khẳng khiu. Hình ảnh như những vết thương lâu rồi không còn đau, những vết thẹo theo tháng năm cũng mờ nhạt. Người đàn bà bắt đầu cho bốn thế hệ, từ con rạch nhỏ mùa khô, bãi bùn, chỉ còn lại con đường nước chảy nhỏ, không đủ chiếc xuồng bơi ngang. Con rạch hai mùa mưa nắng, tháng nước đổ đục ngầu màu phù sa, đổi sang mùa nước giựt tháng mười, màu nước phèn một lần nữa thay sang xanh vàng rờn rợn.

Thế hệ thứ hai, từ ngôi chợ nhỏ với cửa hàng khiêm nhượng, bà Nội hàng ngày làm các thứ bánh trái, may vá thêu thùa, buôn bán các loại hàng vải và các thứ kim chỉ linh tinh, lúc các con cháu đã trưởng thành, không còn ngồi cửa hàng, lại trở về nếp sinh hoạt quen thuộc, trồng trọt, nuôi heo, tính toán bỏ ống cho chi dụng trong nhà. Dù không còn ruộng lúa, không còn nuôi những người tá điền, công cấy, nhưng bao giờ vẫn chén gạo, chiếc khăn, manh áo chia cho kẻ khó nghèo.

Thế hệ thứ ba, cùng lúc với ngôi chợ nhỏ đã trở nên trù phú, người con dâu trong nhà, thay Mẹ chồng quán xuyến, khuôn mặt cửa hàng cũng thay đổi theo thời gian , những ngọn đèn điện sáng thay cho ngọn đèn dầu lửa mù mờ mọng khói, cuộc sống như diều căng gió, phồn vinh từ chiếc xuồng nhỏ ngược dòng nước , lên chiếc xe ngoại quốc, bước vào mát rượi máy điều hoà không khí. 1975, bỗng chốc đảo lộn, theo cả nước đi thụt lùi, trở về thuở chống xuồng xuyên cánh đồng về khu chợ nhỏ, rọc từng manh lá chuối, xếp từng trái cam, chắc chiu mua cho Cha già con cá đã từ lâu không hề để mắt. Cuộc sống đảo điên, nhơm nhớp hàng ngày, cổng trại học tập bên trong hàng kẽm gai tàn dư, lúc nào cũng như đe doạ. Cho đến lúc cuối chiều, con cái tản mác, lại khăn gói trở về thành phố, sống trong căn nhà mấy tầng lầu chỉ có chiều cao, suốt ngày quanh quẩn trong phòng, bốn thước vuông vào ra như bóng .

Trân thở dài, lại nghĩ đến Mẹ, cái dáng dấp thong dong mảnh khảnh ngày nào, bà thường bảo “ chỉ cần nhìn vào đám đông, nhìn mái tóc và vầng trán cao là có thể thấy con dâu ngay. ” Mẹ của lần cuối cùng về thăm, nằm trầm kha hiu hắt, nhẹ như bóng, mong manh như sương, khi đở trên tay em than “ Mẹ già thật rồi ” Nhìn hơn thất thập mùa xuân, nhìn mái tóc xanh ngày nào, những sợi mong manh vương vất… chỉ còn lại những chân trắng lấm tấm …

 

Thế hệ thứ tư, bầy con gái như những hạt châu mưa …Hạt rơi xuống đất, hạt vào …

Trân nhìn chiếc bóng in dài, chiếc bóng hắt hiu ngã theo chân người đàn bà đang tắm những giọt nắng long lanh cuối cùng của ngày hè Bắc mỹ …

 

 

Vũ Thị Thiên Thư

 

Xin mời bấm vào Link để nghe diễn đọc

 

 

 

Giọt nắng cuối chiều III

 

 

Giọt Nắng cuối chiều

 

 

3 Chiếc võng đong đưa

 

Cơn nước ròng chảûy xiết, từ đồng ruộng bao la, đổ dồn về, vội vã chen chúc nhau trong lòng con sông nhỏ nhoi đục ngầu phù sa, nước từ muà nước nổi cuả năm qua. Chiếc xuồng như con trâu già mệt nhọc, cố gắng bơi gần bờ, tránh sức nước, Phấn nhìn tia sáng mặt trời lấp lánh, nhảy múa trên tàng cây kẻ lá, những gốc bần to chểm chuệ lấn ra tận đầu doi, hàng gừa bên dòng sông rễ buông chằng chịt như tóc rối, thả dài từ nhánh cây cao là đà tận lòng sông, như luyến lưu bám víu, như mời mọc đón chào.

Nắng đã lên cao, Phấn nghĩ thầm. Con cá lóc nằm lờ đờ trong khoang xuồng, cái miệng hả to ngáp ngáp, hai mang tai mệt nhọc. Phấn vốc nước cho thêm vào khoang, nhìn con cá, nghĩ đến sự sống mong manh, từ lâu, đã không còn nấu nướng thịt cá, mùi nhớt cá tanh tưởi, cộng với mùi đất bùn, Phấn có cảm tưởng như sắp buồn nôn. Nhưng Ba bệnh đã hơn tuần nay, thường ngày vẫn thả bộ từ vàm vô ngọn , vậy mà giờ không nhấc nổi cánh tay. Phấn thở daì, nhìn laị con cá lóc, miệng lẩm bẩm đọc Chú Giảng Sanh thôi đầu thai kiếp khác …

Chiếc xuồng vừa cập bến, căn nhà gỗ sơ sài, ngoài lan can treo lủng lẳng mấy chậu hoa Phong Lan, mấy chiếc xuồng cột san sát bên nhau, cạnh cây cầu dừa , con mèo nhỏ lông đã bắt đầu mượt mà, đang lim dim nằm phơi nắng trong góc. Phấn cột xuồng, thu dọn các thức cho vào thúng con, xách con cá còn đang hoi hóp thở, mở nón lá, quạt nhanh giọt mồ hơi trên chân tóc, bước vào, bóng tối ụp xuống, nheo ắt cho quen với ánh sáng trong nhà, nhìn ông cụ gầy gò nằm trên ghế bố, Phấn nhẹ nhàng

– Thưa Ba con mới về

Ánh mắt xuôi theo tay con dâu, cụ hỏi

– Con đi chợ về rồi à, mua cá chi vậy ?

– Mấy hôm nay Ba ăn cháo , con tính nấu tô canh cá Ba ăn cơm cho mau laị sức

– Ba ăn cháo cũng được, không thấy thèm khát gì, con mua làm gì cho tốn tiền, con rót cho Ba tách trà

– Ba có muốn ra ngoài trước hiên ngồi một chút không? Mấy đứa nhỏ cũng sắp về rồi, con đi nấu cơm .

 

Người đàn bà ẳm đứa bé trùm dăm ba lớp khăn kín mít trên tay, con bé hai má hồng , môi đỏ như toa son , người hâm hấp nóng, Phấn hỏi người đàn bà:

– Mợ Ngự, con nhỏ nóng laị sao mà ẳm nó ra đây ?

– Dạ , từ tối hôm qua đến giờ, tui cho nó uống thuốc nhưng không hạ nhiệt , tốc xuồng bơi ra hồi sáng tới giờ

– Anh đã coi nó chưa ?

– Dạ rồi, mới uống thêm một lần thuốc nữa đó chị

– Thôi mợ ẳm nó ra bộ ván sau nhà tránh gió đi, chị đi làm con cá nấu tô canh cho Bác Ba

– Cá gì vậy chị ?

– Cá lóc thôi, thịt hiền , bác bệnh cả tuần nay, có ăn uống gì đâu, chị tính khúc đầu nấu canh khúc giữa thì kho mặn cho dễ nuốt .

– Chị ăn chay mà, làm sao đập đầu cá ?

– Ưø, thì cũng phải làm chớ ai làm bây giờ, mượn người bán đập đầu nó cho chết đi, bơi nước ngược về tới nhà thì cá ngon thành cá ươn, thịt bở rạc, nấu canh đâu có ngon lành gì ..

– Thôi chị ẳm con nhỏ, để tui đi làm cá dùm chị, tui làm hàng ngày mà

Vợ Ngự đưa con nhỏ cho Phấn , xách con cá lóc ra sau nhà.Con bé cựa mình rồi thiêm thiếp lại, sờ lên trán hâm hấp, sắp đổ mồ hôi, vậy là sẽ bớt nóng. Phấn nhúng khăn tay, vắt cho khô rồi lau khuôn mặt nhỏ, mở lóp khăn quấn, đôi mi nhướng lên rồi khép lại…

Cầm con găng võng, xỏ ngang, nuột dây thắt lại, treo một đầu dây võng lên cây cột trong góc nhà, đầu kia vào cây đà ngang, nhún thử cho chắc , một tay vạch thành võng, tay kia bế con bé, dặt nó vào nhẹ nhàng, kéo lại mối khăn lót, con bé ngủ mê man, vì sức thuốc hay vẫn còn chống trả với sức nóng thiêu đốt trong thân thể nhỏ nhoi .Phấn lại nhớ con hiu hắt, thư từ qua lại đôi ba tháng một bức, không đủ chứa hết bao nhiêu nhớ thương.. Thằng cháu Ngoại chưa kịp bế bồng cho quen hơi, đã vượt rùng dương sóng gió. Những lần nghe tin con mang thai, trở dạ, đường vượt biển mồ côi, nhớ bầy cháu xa chưa được thấy một lần. Không biết lần nầy con nhỏ có bị hành không, hồi mang thai nó cứ thèm hết chùm ruột lại cóc ổi, ngược lại với thằng em, nay chè mai xôi …

Phấn thở dài , mong sao đời sống các con an toàn, không quá cực khổ hàng ngày. Hai đứa còn lại, chỉ tội thằng Minh, đi học mà không chịu thọc tay xuống bùn, ở cái thời khẩu hiệu “Lao động là vinh quang”, thằng nhỏ vốn ưa sạch sẽ, quần áo gọn gàng, tay chân không lấm cát bụi thì làm sao có điểm lao động tốt như học trò khác được? Còn đi học trong trường tiểu học thì còn có các Dì bao che, mai mốt ra trường trung học huyện thì không thể tránh được điểm xấu . Sinh ra muộn màn, khi các anh chị đã lớn lên, laị thêm ốm yếu bệnh hoạn, biết đi chập chững thì vướng bệnh căn, mỗi lần đau bụng khóc mòn mõi, mâm cơm dọn trên bàn nguội lạnh, Ôâng vào ra không nhấc đũa. Bồng bế các nơi, từ bác sĩ cho đến thầy ta, nghe bà con chuyền miệng vị nầy danh tiếng, bà kia nổi danh mát tay, lại bế bồng đến xin khám bệnh, nhưng chỉ hoài công, không ai tìm ra căn nguyên, chú Sáu nó nhai gừng đắp bụng nóng phỏng cả miệng lưỡi, Bà ôm trên tay ru suốt đêm ngặt nghẹo . Cô Tư nó lén mang tên tuổi ký bán vào chùa nầy đình nọ, xin cho cháu bình an.

Chưa kịp lớn thì nước biến gia vong, ngã ngũ, tan hàng, đang thầm lặng sống qua ngày thì bị tịch biên gia sản , đang tắm sông buổi trưa thì bị cấm cửa, không cho vào nhà xin chiếc áo che thân , phải chạy sang nhà hàng xóm xin cho manh áo cũ. Phấn nhớ lại cảnh con đang trần thân trong nắng trưa, nài nỉ chú công an xin được vào nhà lấy áo mặc và đôi mắt lạnh lùng nhìn thằng bé như kẻ thù truyền kiếp.

Những ngày tháng trốn chui trốn nhũi ở nhà người quen, ít lâu phải dời đi nơi khác vì không muốn người thân bị liên lụy tội chứa chấp tàn dư, che chở cho người dính dáng vào Nguỵ quân, Nguỵ quyền, tư sản, từ bên nhà Dì Thanh chạy ra Sài Gòn, rồi về lại Long Xuyên . Cho đến lúc cạn kiệt thì quay về dựng mái lá sống âm thầm bên cạnh con rạch nhỏ, nương tựa vào những người bà con chân lấm tay bùn …

 

Vũ Thị Thiên Thư

[ còn tiếp ]

 

Xin mời bấm vào link để nghe diễn đọc

 

 

Giọt nắng cuối chiều II

Giọt Nắng Cuối Chiều

2 Nắng trưa

Chiếc võng bố đong đưa theo nắng trưa, tiếng dây thừng cứa vào cột gỗ nhịp nhàng, tiếng giấy qua trang xào xạt , thanh âm như cắt vào không gian êm đềm, hài hoà cùng với tiếng đọc giảng đều đều
Tu đầu tóc không cần phải cạo
Miễn cho tròn cái đạo làm người

Gẫm nhìn Kỷ Mão vừa qua
Gẫm trong thiên hạ nhiều nhà thiếu cơm

Ngày nay tốt phước sang giàu
Xin thương kẻ khó giúp hào một khi

[ Sấm giảng thi tập, Đức Huỳnh giáo chủ , trang 27 ]

Bà Hương xếp lại cuốn Sấm giảng , mấy con muỗi đói bay lượn vo ve, con chó vàng nằm gác mõm bên cạnh khung cửa đôi mắt lim dim. Ngồi dậy, búi tóc vướng vào mắc võng xổ tung, bà dùng ngón tay của bàn phải vuốt tóc cho suông sẽ, quấn lại một vòng trên tay trái rồi lận ra thành múi tóc, tém đuôi tóc mượt mà, thả ngọn tóc như cái mồng nhỏ cong cong hình nửa vành trăng lưỡi liềm. Xỏ chân cào đôi guốc gỗ, bước sang hàng hiên, múc một gáo nước rửa mặt, hớp một chút, xúc miệng, tạt phần còn lại vào mấy trái dừa mộng xếp thành một hàng dài dọc theo đường mương. Nắng trưa thật gay gắt, nhìn ra vườn cây sau nhà, mấy cây mận trắng, nhánh nặng trĩu, bông trái non rụng đầy dưới mương, bà nghĩ thầm, phải gọi bầy trẻ bảo nó vớt lên, bằng không thì mấy trái mận hư rụng xuống sẽ làm thúi hết nước trong mương. Mấy cái mương bên nhà bà Tám nổi rong nổi rêu, nước đổi màu, xanh lè, hôi hám, bầy cá trắng không chịu được nước dơ bẩn chết dần mòn phơi cả bụng trắng phau, vài ngày sau thúi rữa, tanh hôi quá chừng. Chỉ còn lại đám cá dồ , cá tra sức chiụ đựng dai dẵng hơn , còn lất lây sống sót. Người chi mà biếng lười, chỉ cần chịu khó một chút, khai ống bộng, thả nước sông vào hàng tuần làm sạch nước mương mà cũng chẳng chịu làm.
Nhìn bóng nắng xuyên qua ngọn cây xoài, bà chực nhớ đến giờ nấu tấm cho heo ăn, lứa nầy lớn như thổi, mấy con heo giống ngày bà sai bọn trẻ xuống chợ Ô môn mua về còn đỏ hỏn, mới ba tháng nay mà đã nặng ôm rồi. Tháng sau bà sẽ bảo bầy trẻ đi mua một lứa khác về nuôi kế tiếp, lứa nầy sẽ cân vào dịp Tết, lứa sau thì giỗ bà nội sắp nhỏ vaò tháng năm.
Nhìn thấy bóng người đàn bà thấp thoáng sau cửa bếp, bà Hương bước ra, nhịp guốc gỗ lộp cộp đều đều trên nền gạch tàu đỏ thắm,
– Vợ thằng Bé, bây đi dâu giờ nầy ?
– Bác Ba cho con mượn mấy lít gạo nấu cơm, nhà hết trơn rồi
– Thằng Bé laị nhậu nhẹt ở xó nào rồi ?
– Dạ , ảnh trặc tay mấy hôm nay, không đi câu dược
– Tại sao nó lại bị trặc tay , có thuốc men gì chưa ? Cầm chai thuốc rượu về biểu nó xoa bóp hàng ngày cho mau hết, dặn bầy trẻ đi học sáng ghé ngang ăn rồi hẳng đi, đưa cái thúng cho con Năng, biểu nó đong cho chục lít gạo.
– Dà, thưa bác con dìa trỏng .
– Ưà , dìa lo cơm nước cho bầy trẻ đi.
Bà thở dài mở cuốn Sấm Giảng , tới chương nào rồi kìa, Kệ dân của người khùng, bà tiếp tục ngâm nga …

Ông Hương mở nắp vỏ bình trà, làm bằng trái dừa điếc cưa ngang miệng, đánh bóng như gương soi, rót chén nước trong màu vàng lóng lánh, mùi trà ướp hoa sen nhẹ nhàng … Nắng chang chang , đi bộ từ ngoài vườn vào đủ đổ mồ hôi mẹ mồ hôi con , nhìn theo cái bóng vừa lách qua hàng rào, laị con vợ thằng Bé ra đây xin xỏ gì nữa.Ông quay sang bà
– Vợ thằng Bé ra đây làm gì ?
– Có gì đâu, nó ra mượn mấy lít gạo thôi, thằng Bé bị trặc tay , không đi câu được, nhà hết gạo lấy gì nấu cơm.
– Cái thằng làm biếng đó, chỉ giỏi nhậu nhẹt thôi, trặc tay chân gì nó. Tối ngày lo ăn nhậu say sưa té bờ té bụi , chưa gẩy ống quyển là phước mười đời, bà cứ dung dưỡng cái quân báo đời đó, kệ mồ tuị nó.
– Ông nóng làm gì, thằng cha nó tội, chứ tụi con nít tội gì, tui chỉ cho má nó lít gạo nấu cơm, hổng lẻ ghét thằng cha nó mà mình bỏ con nó đói ?
Bà lặng lẽ mở quyển Sấm giảng trên tay, tìm lại chương đang đọc dỡ, tiếng võng đưa nhịp nhàng, giọng đọc ngân nga những khuôn vàng thước ngọc…
Nói rằng lòng chẳng ham sang
Sao còn ham của thế gian làm gì …

Giàu sang như nước trên nguồn
Gặp cơn mưa lớn nó tuôn một giờ *

Bà sống gần hết đời người, những chuyện thị phi không còn bận tâm, ngay cả những khi ông nóng như Trương Phi, bà lặng lẽ đọc cho xong trang Sấm Giảng, xếp quyển sách lại,ngoài sân những giọt nắng vẫn đong dưa.

* Bà về với cõi Phật trứơc khi nhìn sự linh nghiệm , 1975

Vũ Thị Thiên Thư
[ còn tiếp ]

Xin mời nghe diễn đọc :

Mụ me Tây

MeTay

Do Hiền Vy diễn đọc

Mụ Me Tây

Giằng lấy cái rổ, trút con cá vào giỏ, ném tờ giấy bạc Đông Dương xuống mụ đỏng đảnh bước đi, đôi bàn tay đong đưa, mặc cho người đàn bà nhà quê chạy theo nằn nì:
– Bà cho cháu xin thêm tí tiền, nhà có giỗ, chỉ có con cá nầy bán ra để lấy tiền mua nhang đèn …
– Bà trả bấy nhiêu là tốt rồi, xéo đi cho khuất mắt bà.
Người đàn bà nhà quê cúi xuống nhìn tờ giấy bạc trong tay, bây nhiêu đây chưa mua đủ đèn nhang, thì còn nói gì đến rau quả ?? Nuớc mắt chợt lưng tròng, chị ta ngồi bệt xuống, kéo lấy ống quần lên chùi ngang mắt.
Cô gái trẻ dừng chân lại, nhẹ nhàng hỏi:
– Chuyện gì thế, tại sao chị ngồi khóc giữa chợ ?
– Dạ bà ấy cướp của con, con cá lớn như cái chình, vậy mà trả có bấy nhiêu thôi Cô Hai à.
Quắc mắt nhìn theo dáng điệu kênh kiệu của mụ Me Tây, Cô Hai bước nhanh theo, chắn ngang đường, nhìn thẳng vào mụ ta, cô Hai trầm gịong:
– Chị kia có trả thêm tiền cho người ta không ? Con cá đó giá ít nhất cũng ba lần tiền, định ăn cướp của dân nghèo giữa ban ngày à ?
Ngạc nhiên nhìn cô gái nhỏ nhắn đang đứng chắn lối, con nhỏ nầy lớn gan thật, chưa biết bà là ai sao , giỡn mặt sao. Bà ta cao giọng
– Bà trả bấy nhiêu đó thôi, con nào giỏi thì làm gì bà ?
– Không trả đúng giá tiền thì phải trả cá lại, có thế thôi.
Thò bàn tay mềm mại, những ngón tay dài thon thả, làn da mịn màng, nhưng khi nắm lấy cổ tay của mụ me Tây, xiết cứng như gọng kềm, đau quá, mụ buông rơi cái giỏ. Cô Hai lẳng lặng trút con cá, ném cái giỏ xuống đất rồi đi thẳng, không buồn ngó lại. Mụ Me Tây bất ngờ, chưa kịp hoàn hốn, vội chay theo níu vạt áo cô ta lại:
– Con cá nấy của bà mua rồi, đố con nào dám lấy lại.
– Tôi lấy đây, Bà không buông áo tôi ra, đừng trách sao tôi nặng tay.
Nói vừa dứt tiếng, Cô Hai gạt tay mụ ra, mang con cá laị trả cho chị nhà quê, diụ giọng :
– Con cá nầy tôi mua lại cuả chị, tiền đây, chị đi mua nhang đèn mà về lo cúng giỗ. Đi đi.
Chị nhà quê mừng rối rít, chắp tay xá Cô Hai rồi tất tả cắp rổ đi.

Ti nhìn chị Trân đang gọt trái cam trên tay, từng vòng xoay đều đặn, vỏ cam biến thành một sợi dây dài xoắn ốc, bàn tay chị cầm con dao nhỏ, trông nhẹ nhàng quá. Ba thường bảo chị giống hệt Cô Hai. Đúng vậy, Chị Trân khi mới sinh, cô Hai bồng chị ra cho Nội nhìn, Ông chỉ lặng lẽ bảo mang vào cho Bà Nội. Ông muốn cháu trai để nối dòng dõi. Nhưng cô Cháu Nội đầu tiên nầy là người theo Ông khắp nơi, từ lúc còn thơ, Ông cưng chiều rất mực, mặc dù vẫn kém anh “Tư Cao“, người chính là cháu đích tôn của Ông, Ba nói Ông theo người xưa, không thể thoát ra khỏi cai vòng “Trọng Nam Khinh Nữ“, nhưng chớ có dại, tưởng Ông không cưng cô cháu Nội mà lầm. Ông chẳng từng lặn lội tìm mua con chó Kiki, là giống chó săn của Đức, mang về làm hộ vệ cho cô cháu cưng. Lại còn cõng con bé bao nhiêu lần vượt qua sông rạch …chỉ vì cô tiểu thư gớm bùn, không chịu bước xuống. Cho dù thức khuya đến mức nào, cũng dẫn cháu đi xem tế Thần, chỉ vì cô cháu Nội cưng tò mò muốn tìm hiếu thêm phong tục. Có thứ gì Cô muốn mà Ông không tìm cho đâu, ngay cả chuyện muốn xem cái Sắc Thần chứa trong hộp sơn son thếp vàng đặt trên khánh thờ, cô cũng lén vào nhìn trộm.

– Chị Trân nè, vậy Mụ Me Tây để yên cho Cô Hai sao ?
– Ti, em từ từ chứ, sao lại yên được cưng ??

Vũ Thị Thiên Thư
[ Còn tiếp ]